ĐỌC “BỐN MÙA”
THƠ TRẦN NHUẬN MINH
NXB VĂN HỌC HÀ NỘI 2011
Suốt
hành trình thơ của mình, Trần Nhận Minh luôn đau đáu,
luôn trăn trở với những :
“Câu
thơ như mảnh hồn người
Chắt
chiu mưa nắng một thời cho nhau...”
Và
cũng dám phơi trải :
“Câu
thơ như gan ruột
Phơi
ra giữa trời mây...”
Với
bạn bè và với cõi người.
Khát
vọng sống và khát vọng thi ca của ông thật lớn lao và
cũng thật khiêm nhường. Sống thì muốn nép mình, chết
lại muốn hóa thân:
“Sống
tôi gửi tiếng ho khuya khoắt
Chết
gửi hồn
Xốp
nhẹ như bọt biển
Sóng
dềnh lên táp vào mỗi lòng người
Những
câu thơ như MUỐI
Chảy
xót xa trong máu tôi
Những
câu thơ như TRỐNG
Đánh
liên hồi trong tim tôi
Những
câu thơ như LỬA
Cháy
không nguôi trong xương tôi...”.
Khám
phá vĩ đại nhất và cũng đau đớn nhất của đời thơ
Trần Nhuận Minh là quỹ tích ham muốn, nói văn hoa là quỹ
tích hy vọng của cõi người không phải là tuyến tính,
là đường thẳng mà là một đường cong khép kín. Điểm
khởi đầu cũng chính là điểm kết thúc:
“Trái
đất quay trong hy vọng khôn cùng...”
Ham
muốn - hy vọng của cõi người bị cuốn hút vào chính
vòng quay của trái đất. Chính vì lẽ đó mà Trần Nhuận
Minh lấy tên bài thơ “Bốn mùa” đặt tên cho tuyển
tập thơ của mình – Một quyết định tài hoa và sáng
suốt, nó lay thức và đồng cảm với trái tim cõi người.
Trần Nhuận Minh luôn muốn vươn lên, vượt lên chính
mình không bao giờ tự bằng lòng, thỏa mãn với thơ của
mình:
“Có
thơ vui năm trước
Giờ
đọc lại thêm buồn
Không
viết được hay hơn
Uống
rượu gì cũng nhạt”
Đó
cũng chính là một lý do để Trần Nhuận Minh gửi lại
dọc đường những tập thơ của một thời – những đứa
con tinh thần mà ông đã mang nặng đẻ đau.
Hành
trình của thơ Trần Nhuận Minh là hành trình đi tìm cái
thiện, đến với cái thiện và truyền bá cái thiện, là
hành trình đi đến tận cùng bản ngã của cõi người.
Tần số rung cảm con tim của Trần Nhuận Minh đã giao
thoa được với tần số rung cảm con tim của cõi người.
Nói khác đi thiện và hướng thiện là bản chất thơ của
Trần Nhuận Minh. Bản chất đó đã bao trùm lên cõi
người:
“Mỗi
người mỗi số phận
Ngang
qua thế kỷ này”
Những
số phận đó không chỉ đi ngang qua thế kỷ mà đã hội
tụ đủ đầy trong thơ Trần Nhuận Minh.
Vẫn
biết thiện là chức năng tối thượng của văn học nghệ
thuật, nhưng nó chỉ là khát vọng. Trong đời không phải
ai cũng có thể đem thơ mình làm công cụ vận chuyển
được điều thiện đến với cõi người. Đã bao người
đang muốn lột xác, đang muốn hóa thân và rất nhiều
trong đó đang giãy giụa trong bế tắc, họ bỏ đi bản
chất mỹ của thơ để đến với sự rối rắm khó hiểu.
Trong khi đó Trần Nhuận Minh vẫn giữ cho mình những câu
thơ như MUỐI, những câu thơ như TRỐNG, những câu thơ
như LỬA đốt lên ngọn lửa của yêu thương và khát
vọng sưởi ấm cho cõi người. Cổ nhân đã dạy “Thuyết
thi nhất thủ thỉ hàn tuyền” nghĩa là bàn về một
bài thơ hay một suối sách vẫn không đủ.
Để
nắm bắt được cái hồn cốt, cái rộng dài đến vô
biên, cái sâu thẳm đến khôn cùng của tuyển tập thơ
“Bốn mùa” – một tuyển tập có độ dày 500 trang
bằng một bài viết có dung lượng dăm bảy trang là điều
không thể. Không còn cách nào khác, tôi cứ dọc hành
trình của “Bốn mùa” ghi lại những cảm nhận, nghĩ
suy, trăn trở và để nắm bắt được phần nào những
thông điệp mà Trần Nhuận Minh muốn gửi gắm vào cõi
người qua thơ mình.
Tôi
không chú trọng khai thác đặc điểm nghệ thuật của
thơ Trần Nhuận Minh, vì nó thuộc vào một phạm trù quá
rộng lớn. Tôi đồng cảm với ý thơ của nhà thơ Nguyễn
Thúy Quỳnh: “Chủ nghĩa nọ, trường phái kia cãi nhau
hàng thế kỷ. Chẳng làm cho hạt thóc vì thế mà nảy
mầm”. Tôi chỉ quan tâm đến tính tư tưởng trong
thơ Trần Nhuận Minh.
Tôi
xin bắt đầu bằng cuộc hành trình xuyên suốt chiều dài
của tuyển thơ “Bốn mùa”.
“NHÀ
THƠ VÀ HOA CỎ” - VĂN CHIÊU HỒN CỦA THỜI HIỆN ĐẠI.
Tôi
coi “Nhà thơ và hoa cỏ” là văn chiêu hồn của thời
hiện đại. Thay vì Nguyễn Du khóc thương những cô hồn
bơ vơ lưu lạc trong cõi thâm u nơi địa ngục, Trần
Nhuận Minh khóc thương những kiếp người, những thân
phận hiện hữu trong cõi nhân gian. Những thân phận,
những kiếp người chỉ ngang qua thế kỷ đã hội tụ đủ
đầy trong “Nhà thơ và hoa cỏ”.
“CHIỀU
YÊN TỬ”
Tôi
được đọc “Chiều Yên Tử” trên trang thơ hay báo Văn
nghệ Hạ Long. Bài thơ đã tạo cho tôi cảm xúc để viết
bài “Đến với thơ Trần Nhuận Minh” đăng trên Văn
nghệ Hạ Long. Trần Nhuận Minh đã gửi cho tôi một bức
thư ngắn, mở đầu có câu: “Thế là từ nay tôi lại
có thêm một người bạn nữa trong đời”. Tôi tin đó
là lời nói chân thành vì thế tôi rất cảm động. Trần
Nhuận Minh coi ai đã đến với thơ mình, hiểu một phần
nào thơ mình là bạn. Năm 2012 tôi có dịp xuống Hội Văn
học nghệ thuật Quảng Ninh để giới thiệu tập thơ cho
Nhà thơ nữ trẻ Lại Tuấn Hiền, tôi được gặp Trần
Nhuận Minh tại Hội trường tầng 4 của Tòa nhà Hội Văn
học nghệ thuật Quảng Ninh. Lần đó ông nói với tôi
một câu “Tôi chỉ quan tâm viết cho cuộc đời và viết
vì cuộc đời” rồi từ tầng 4 ông đi về nhà lấy
tuyển tập thơ “Bốn mùa” để tặng tôi. Tôi rất xúc
động nhưng chẳng biết phải cảm ơn ông như thế nào.
Sau đó ít lâu tôi được gặp ông lần thứ hai trong buổi
ra mắt tập thơ “Cánh đồng và ngọn lửa” của Nhà
thơ Dương Phượng Toại cũng đồng thời để dự lễ
khánh thành ngôi Từ đường họ Dương do Nhà thơ Dương
Phượng Toại xây dựng ở Cẩm La – Quảng Yên. Trần
Nhuận Minh có mấy lời tâm sự khi giới thiệu tập thơ
“Cánh đồng và ngọn lửa”. Mở đầu bằng câu “Ngôi
từ đường khang trang to đẹp này nhiều người có thể
làm được, có được. Nhưng ngôi nhà thi ca của Dương
Phượng Toại trong đời không phải ai cũng có được.
Tôi thành tâm chúc mừng sự ra đời của “Cánh đồng
và ngọn lửa””. Cũng từ đó đến nay tuyển tập
“Bốn mùa” luôn luôn có mặt trên bàn làm việc của
tôi. Nó cứ lay thức, cứ day dứt, cứ trăn trở trong
tôi. Tôi muốn viết một đôi điều gì đó về Trần
Nhuận Minh và về tuyển tập “Bốn mùa”. Nhưng tôi cảm
thấy lực bất tòng tâm, vốn ngôn ngữ thì hạn hẹp và
nghèo nàn còn thơ Trần Nhuận Minh thì quá lớn lao. Nhưng
rồi những thân phận, những kiếp người trong thơ ông
cứ giục giã tôi phải viết, phải phơi trải những hiểu
biết tuy rất hạn chế về “Bốn mùa”. Tôi bắt đầu
cuộc hành trình đầy gian lao vất vả đó.
“Chiều
Yên Tử” là một bài thơ lớn của Trần Nhuận Minh. Ông
đặt nó lên đầu tuyển tập bởi những gì ông muốn
gửi gắm qua “Chiều Yên Tử” đã bao trùm lên cả cuộc
đời ông, cả thơ ông. Mai này sau “Bốn mùa”, Trần
Nhuận Minh có cho ra đời bao nhiêu tác phẩm nữa thì khởi
thủy cũng từ đây, từ tâm thế trên non cao Yên Tử mà
tĩnh tâm, mà soi rọi cõi người. Điều đó ta chưa thể
biết vì hiện nay ông đang chuyển mạch viết của mình
qua một mảng đề tài khác về văn học sử Việt Nam mà
ông đặt cho nó một tiêu đề “Thời gian lên tiếng”.
Chính
nơi đây, nơi non thiêng Yên Tử Trần Nhuận Minh đã theo
dấu người xưa về với cõi thiền để tĩnh tâm, để
tẩy rửa tâm hồn và lắng đọng trí tuệ:
“Tôi
nằm trên vệ cỏ
Đối
mặt với trời cao
Một
nỗi niềm trinh bạch
Giữa
bốn bề gian lao”
Trần
Nhuận Minh đã hoàn toàn tĩnh tâm và điều kỳ diệu đã
đến với ông, ông đã hoàn toàn nhập thế được vào
cõi người để nhận biết những thăng trầm dâu bể của
cõi người. Ở đó ông đã gặp:
“Mỗi
người một số phận
Ngang
qua thế kỷ này”.
Suy
cho cùng đời người so với cái vô cùng vô tận của
thời gian chỉ là khoảnh khắc, chỉ là ngang qua và tất
cả những số phận đó đều mang theo một nỗi niềm
trăn trở và những nỗi đau đời:
“Mỗi
người một câu hỏi
Đi
mang mang trong đời...”
Đã
hội tụ đủ đầy trong tâm hồn ông, bắt ông phải thay
mặt họ giãi bày ra với cõi người những nguồn cơn dâu
bể, những oan nghiệt đắng cay, những ngang trái lọc
lừa. Ở đây ông đã lắng nghe được “Tiếng chuông
như hồn người” đang vang vọng trong tâm hồn ông. Ông
trở thành sứ giả của những số phận ấy, sứ giả
của mọi kiếp người nhưng ông vẫn chưa thể giải đáp
những câu hỏi muôn đời cho cõi người:
“Cuộc
đời đến đâu ư ?
Con
người là gì vậy ?
Họa
phúc có hay không ?
Kiếp
sau ai đã thấy”
Trong
quá trình đi tìm cái tôi, đi tìm bản ngã của cõi người
Trần Nhuận Minh đã hoàn toàn lột xác và giờ đây –
chính từ non thiêng Yên Tử này đã thôi thúc ông viết
cho cuộc đời, viết vì cuộc đời và cũng từ tâm thế
trên non cao Yên Tử đó Trần Nhuận Minh đã có một cái
nhìn dị biệt với cái nhìn trước đây.
“CHƠI
THUYỀN TRÊN VỊNH HẠ LONG”
Mặc
dù Trần Nhuận Minh đã viết trong câu kết :
“Ta
rong chơi thôi mà, có tư tưởng gì đâu”
Nhưng
tư tưởng của bài thơ đã quá lớn lao, đã bao trùm lên
tất cả. Ông đã bỏ qua quy luật của kiến tạo vỏ qủa
đất và coi Vịnh Hạ Long là sản phẩm từ trò đùa của
tạo hóa nhưng không chỉ:
“Đùa
một tí mà thành muôn vẻ đẹp”.
Và
không chỉ có:
“Tiên
nữ tắm giữa trời xanh mây bạc
Hồn
nhiên như chưa hề thấy bóng người”
Vì
bóng người ở đây giờ nhỏ nhoi mỏng manh lắm lắm. Ở
đây còn có những nỗi đau đang đọng lại trong đá,
trong mây, trong nước, trong trời.
“Cứ
tự nhiên mà vượt hết mọi thời
Dửng
dưng với đói rét, đau thương, vương triều đổ nát
Dửng
dưng với cõi người quẩn quanh nhợt nhạt
Dửng
dưng với trăng sao giả dối tầm thường”
Cuộc
rong chơi của Trần Nhuận Minh đã mang đến cho ta bao điều
suy ngẫm về sự quẩn quanh của kiếp người. Chính con
người dửng dưng chứ không phải đảo đá dửng dưng.
Chính cái vòng tròn của hy vọng đã biến con người trở
nên quẩn quanh và nhợt nhạt.
“THƠ
TÌNH NGÀY KHÔNG EM”, “CHIỀU XANH”.
Thơ
tình mà lại không em vì giờ đây :
“Thì
em xa,
Em
đã quá xa rồi…”
Những
đổi thay dâu bể bao giờ cũng vượt ra ngoài tầm kiểm
soát của con người. Ta không hiểu được những gì rồi
sẽ đến nên con người thường sống chơi vơi và đau
khổ trong tình yêu. Những câu thơ ở đây nhẹ nhàng
nhưng lại gieo giông bão vào lòng ta. Trần Nhuận Minh cứ
liên tiếp đặt vào đây những trăn trở:
“Nếu
biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau”
Và
sau câu trăn trở đó, là sự xót xa ân hận của Nhà thơ
– người tình:
“Anh
đã chẳng buộc em vào tội lỗi”
Để
đến nỗi:
“Em
đứng lặng. Mặt úp vào bóng tối
Khổ
thân em có nói được gì đâu”
Và
cũng sau trăn trở ấy có lúc đã le lói một niềm hy
vọng:
“Để
quá khứ chỉ còn là thương nhớ
Và
tương lai ít ra cũng ngọt ngào”
Cùng
với “Thơ tình ngày không em” những bài thơ tình khác
của Trần Nhuận Minh cũng mỏng nhẹ như sương khói nhưng
lại có độ lắng sâu và rất dạt dào cảm xúc. Vì thế
nó găm chặt được vào cõi người. Thơ tình của ông
gieo vào lòng ta một nỗi buồn man mác, để lại trong ta
một nỗi niềm tiếc nuối của một thời xưa cũ, nơi
mối tình đầu của mỗi đời người chớm nở. Nó cứ
như sợi heo may se lạnh đầu thu vấn vít vào hồn ta.
Trong “Chiều xanh” Trần Nhuận Minh có những câu thơ
thật hình tượng:
“Áo
em ngắn hết một thời con gái
Nỗi
yêu anh còn biết giấu vào đâu”
Tình
yêu của cô gái dậy thì, sức vóc lớn trước tuổi.
Tình yêu ấy mới trong trắng làm sao, sao đẹp thế mà em
lại phải e thẹn dấu vào trong áo. Để bây giờ em chẳng
thể giấu nó vào đâu. Rồi thời gian cứ trôi đi:
“Tóc
em rối trăng lên chưa kịp chải
Đôi
giọt buồn mơ mộng đọng trong mây”
Mây
là thực, mây cũng là mái tóc mây của nàng trinh nữ
biếng chải khi trăng lên. Trăng của thề hẹn lứa đôi
nhưng giờ đây em đã lẻ bóng. Chỉ mình em, em chải tóc
làm duyên cho ai ? Và tự nhiên lại vụt lên câu thơ tài
hoa đến thế. Thơ là sự vụt hiện, sự lóe sáng của
thiên tài:
“Mây
trinh nữ che nghiêng trời xóm bãi”
Sự
kỳ ảo, vẻ đẹp của câu thơ này có nói đến cả đời
cũng không hết được. Mỗi người sẽ tìm cho mình một
cảm nhận về nó. Rồi tất cả lại chìm sâu vào quạnh
vắng cũng chỉ bằng một câu thơ:
“Chim
le le gọi bạn cuối đầm sâu”
Mây
trinh nữ thì lang thang trên trời, còn chim thì gọi gọi
bạn cuối đầm sâu. Sự kỳ ảo trộn lẫn với sự
hoang vắng cho ta cảm nhận về một không gian thơ có cái
gì khác lạ.
Và:
“Tà áo mỏng bồng bềnh cơn gió rét
Thổi
nao lòng từ tuổi chớm hoa bay”
Bài
thơ thì khép lại nhưng tà áo mỏng và cơn gió rét ấy
cứ bay, cứ thổi, cứ thổi mãi đến nao lòng ta. Xin được
trích vào đây một khổ thơ đọc nó lòng ta dịu lại
trước khi ta bước vào hành trình đi đến với những
kiếp người:
“Còn
chăng hương xuân trong đôi hoa tay
Chạm
vào môi em hoang vu khô gầy
Xoa
lên má em xanh mờ hồn xưa
Vuốt
trên mi em mặn nhòe hơi mưa...”
“MỢ
HỮU”
Hữu
ở đây trong chữ Hán là hữu – có chứ không phải là
hữu – bạn. Trong thơ Trần Nhuận Minh thường xuất hiện
những từ trái ngược như thế. Ta sẽ giật mình khi đọc
hết bài thơ. Tên bài thơ như thắp lên niềm tin, nhưng
đọc xong thơ ta lại thấy sự đổ vỡ.
Vợ
chồng mợ làm ăn chỉn chu chính đáng, chồng mợ là
người đàn ông sống có trách nhiệm với gia đình luôn
coi chuyện an cư mới lạc nghiệp lên đầu. Đây chính là
cái ham muốn quẩn quanh của con người. Rồi số phận
khắc nghiệt đã giáng lên cái gia đình hạnh phúc ấy:
“Cậu
xây xong nhà ba tầng
Người
cứ dần dần héo quắt
Thế
rồi một sớm tinh mơ
Cậu
cứ lặng im mà mất...”
Từ
cậu ở đây không để chỉ địa vị cao sang mà chỉ
ngôi thứ anh chị em trong một gia đình. Có nghĩa là trên
cậu và dưới cậu là chị gái và em gái. Điều đó mới
là nguyên nhân của sự tan vỡ - đàn bà lắm chuyện, lắm
ghét ghen và đố kỵ. Sự đố kỵ và ghét ghen của con
người ở đây sao mà tàn nhẫn thế. Người chết vẫn
nằm đó trong quan tài mà người sống thì đã:
“Cô
bác từ quê ra viếng
Thấy
mợ dịu dàng mảnh mai”
(Ôi
cái dịu dàng mảnh mai cũng có tội ư ?)
“Mà
nhà thì to đẹp thế
Biết
rồi sẽ vào tay ai ?”
Và
:
“Em
chồng mắt lườm miệng nguýt
Vô
tâm mợ có thấy đâu...”
“Cậu
chết mợ thành người lạ
Bơ
vơ trong chính nhà mình”
Hỏi
có gì khổ đau hơn thế, họ hàng đơn bạc và thói đời
đơn bạc. Ngày xưa khi tôi đọc câu thơ của Kha Ly Chàm:
“Ừ nhỉ thói đời như mõm chó” đăng trên báo
Văn nghệ Bình Dương tôi đã phê phán câu thơ đó. Giờ
đọc thơ của Trần Nhuận Minh tôi mới thấy ân hận xót
xa. Từ nơi xa này xin tạ lỗi với Nhà thơ Kha Ly Chàm.
Mõm chó chỉ làm rách da rách thịt, còn thói đời ở đây
đã hủy hoại những kiếp người.
“Như
con thuyền nan không bến
Lênh
đênh trong chính phòng mình”
Rồi
Trần Nhuận Minh chỉ biết kêu trời mà chẳng thể làm
gì được để bảo vệ hạnh phúc cho một kiếp người.
“Mợ
đáng thương hay đáng trách
Trời
ơi ! Tách bạch mà chi
Dòng
sông muôn đời vẫn thế
Đục
trong thì cũng trôi đi...”
Đi
qua cuộc đời mợ Hữu ta lại bắt gặp một thân phận,
một kiếp người:
THÍM
HAI VUI:
Lại
một cái tên trái ngược nữa mà Trần Nhuận Minh đặt
cho nhân vật của mình.
Đời
một người chinh phụ khi chồng ra đi chinh chiến lại coi
đó là những năm mình được sống trong hòa bình. Có cái
nghịch lý nào đau đớn hơn thế ?
“Thím
bảo những năm ấy
Là
những năm hòa bình”
Một
mình thờ chồng nuôi con trong gian lao vất vả mà chẳng
có một lời kêu ca trách móc:
“Có
tin đồn chú mất
Thím
thầm cắn chặt môi
Nuôi
hai con ăn học
Cấy
cày đến quắt người”
Nhưng
rồi:
“Bỗng
đột nhiên chú về
Tung
huân chương đầy chiếu
Thím
cười mà như mếu
Nước
mắt chả buồn lau”
Chân
dung của một người anh hùng, công thần nhưng vô học và
chân dung của một người phụ nữ khổ đau đã được
Trần Nhuận Minh tóm gọn trong bốn câu thơ. Sự tài hoa ở
đây đã đi đến tột đỉnh và sự đau thương mất mát
ở đây đã đi đến tột đỉnh. Cái nhân cách của một
vị anh hùng, công thần nhưng vô học đã được Trần
Nhuận Minh tóm gọn trong 2 câu thơ nhưng thực ra chỉ
trong một từ “tung”. Sau cái hành động ngạo mạn vô
học ấy là tất cả đã đổ vỡ nát tan: danh dự, công
lao, gia đình và hạnh phúc. Trong con người ấy bây giờ
cái gì cũng nhất:
“Giặc
nào chú cũng thắng
Có
thua thua ông trời”
Một
con người đã đổ xương máu cho bốn cuộc chiến tranh,
chắc là thế: Chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, biên
giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, giờ còn lại là gì
sau hành động “tung huân chương đầy chiếu” ấy ?
“Thế
rồi … biết vì đâu
Yên
lành không chịu được
Vợ
con chú đánh trước
Xóm
giềng chú đánh sau”
Khắc
họa hình ảnh người anh hùng, công thần ấy Trần Nhuận
Minh còn muốn gửi gắm cho cõi người này một thông điệp
về tội ác chiến tranh, nó không chỉ hủy hoại xương
máu mà còn hủy hoại nhân cách của cả một lớp người.
Chiến tranh đã tạo dựng ra những lớp người khát máu
không chỉ phía bên kia mà còn cả phía bên này. Cuồng
tín và bạo lực. Nhưng ở đây vẫn chỉ là của một
người theo tôi là vô học. Còn những kẻ có học thì tệ
nạn công thần, địa vị còn tàn sát và dày xéo đất
nước này tan hoang và kiệt quệ đi rất nhiều. Lịch sử
đã chứng minh điều đó. Tầng lớp công thần địa vị
có học khôn ngoan hơn nhiều, mưu kế hơn nhiều và cũng
hiểm độc hơn nhiều.
Tôi
đã đọc một bài báo của Trần Nhuận Minh bàn về cơ
chế quản lý khoáng sản của đất nước. Vì theo ông
các công ty khai thác khoáng sản bây giờ gần với ông
nhất là khai thác than ở Quảng Ninh thực chất là công
ty của một gia đình, một dòng họ. Lợi nhuận thu được
là của gia đình và dòng họ, thế mà họ không phải bỏ
ra một xu, một cắc nào để mua khoáng sản của đất
nước ? Thế là nghĩa làm sao ? Hay phải chờ đến đấng
“Mê Tơi” trả lời : “Như thế là như thế”.
Thím
Hai Vui đã phải sống một cuộc đời nhiều mất mát đến
nỗi bị chồng ly dị, nhưng cái đau đớn nhất là bị
chồng cướp đi đứa con mà mình mang nặng đẻ đau, chắt
chiu mồ hôi nước mắt để nuôi dạy nó khôn lớn thành
người. Đó là nỗi đau lớn nhất của người mẹ. Chính
vì thế:
“Thím
hát như kẻ dại
Miệng
mếu lại như cười”
Thím
phải bỏ làng bỏ quê lên rửa bát cho các quán ăn trên
tỉnh, nhưng có phải rửa bát thôi đâu mà còn trở thành
người tình của các ông chủ, nên mới có cảnh:
“Những
mặt phấn quần hoa”
Nhưng
dù sao thì thím vẫn phải cố giữ lấy tiết hạnh của
mình. Vì vậy khi gặp người quen thím đã phải:
“Thấy
ai quen cũng lánh”
Nỗi
đau của thím Hai Vui là nỗi đau đi trọn kiếp người.
“ÔNG
HỦI”
Như
tôi đã nói “Nhà thơ và hoa cỏ” là văn chiêu hồn của
thời hiện đại. Ngoài khóc thương những kiếp người
đang sống ông còn khóc thương những kiếp người đã
chết. Bằng giọng thơ lục bát nhuần nhuyễn ta lại thấy
một Nguyễn Du vĩ đại giàu nhân ái đang giang rộng vòng
tay ôm trọn mọi kiếp người.
Tuy
nhiên ngoài ý nghĩa nhân văn như ông đã viết:
“Lòng
dân dù ở thời nào
Vẫn
như mây nước thấm vào cỏ hoa”
Và
nghĩa cử cao đẹp của ông:
“Câu
thơ viết buổi thăm nhà
Đọc
trong tâm tưởng gọi là viếng ông”
Thì
đằng sau những ngôi mộ của ông Hủi không chỉ ở quê
ông mà nó tồn tại khắp mọi cung đường của đất
nước, trên cả những đỉnh đèo mây phủ còn lẩn khuất
một điều mà có lẽ ông không muốn đề cập đến vì
ông muốn dành riêng vào đây tất cả lòng nhân ái. Bài
thơ còn gợi cho tôi một khía cạnh khác mà câu thơ đề
tựa của ông ở đầu tập luôn nhắc nhở tôi một khía
cạnh không tốt đẹp, đó là lòng ham muốn vô độ của
con người. Chính vì thế mộ ông hủi đã bao lần san lấp
và cũng chừng ấy lần mọc lên nguyên vẹn. Mỗi người
đi đường qua đây đều ném vào đó một hòn đất, một
hòn gạch, một nhành lá, một bông hoa và có khi là những
nén hương thơm ngát. Rồi cứ lầm rầm khấn khứa: Xin
được phù hộ cho tai qua nạn khỏi, cho buôn may bán đắt,
cho phúc lộc dồi dào. Chỉ bỏ ra một hòn gạch, một
cục đất mà ham muốn của con người lại vô độ. Chẳng
hiểu những ông đống, ông hủi ấy có đủ lộc mà ban
phát cho ham muốn của cõi người. Cảnh đến đền thờ
bà Chúa Kho cũng thêm một minh chứng cho câu thơ “Trái
đất quay trong hy vọng khôn cùng”. Bỏ lễ vật ra một
đồng, một hào mà đi vay tiền tỷ để làm giàu. Theo
tôi những ngôi mộ của ông đống, ông hủi đã được
tạo dựng lên từ hai yếu tố đối nghịch – nhân ái
và lòng tham vô độ của con người.
“BẠN
CHƠI TỪ THUỞ QUÀNG KHĂN ĐỎ”
Khi
viết về “Nhà thơ và hoa cỏ”, tôi coi nó là văn chiêu
hồn của thời hiện đại. Trần Nhuận Minh khóc thương
những kiếp người hiện hữu trong cõi người. Tôi chưa
đọc và chưa đếm những hạng người trong bài thơ này.
Đúng như tôi đã khẳng định, ở đây Trần Nhuận Minh
đã khắc họa đúng 10 hạng người. Tất cả đã tụ họp
về đây. Bài thơ kết dính những số phận của một
thời – một thời tươi đẹp biết bao nhiêu. Thời của
khăn quàng đỏ thắm chỉ bằng một bài thơ dài hai trang
mà biết bao thân phận, bao trải nghiệm cuộc đời. Tất
cả đã dồn tụ vào đây như một xã hội của một thế
giới người. Bằng chất giọng của những câu hỏi xót
xa, những câu hỏi ở đây và bao nhiêu bài khác nữa của
Trần Nhuận Minh cứ xoáy sâu vào tim óc mỗi người, và
rồi có ai tìm ra câu giải đáp nào đâu ! Những tâm hồn
đẹp đẽ vậy mà thời gian, sóng gió cuộc đời đã làm
đổi thay đi bao số phận. Mỗi số phận, Trần Nhuận
Minh đã tóm gọn bằng một hoặc hai câu thơ. Đọc nó ta
thấy được nguyên trạng một đời người. Cái tài năng
nắm bắt thần thái cốt cách của đối tượng muốn
miêu tả, muốn gửi gắm của Trần Nhuận Minh đã đạt
đến độ thượng thừa. Nhân cách của một cai tù thời
hiện đại được Trần Nhuận Minh tóm gọn trong một
câu:
“Gặp
nhau tay bắt lạnh như đồng tiền”
Đối
với bạn thuở quàng khăn đỏ mà tâm hồn còn giá băng
như thế còn đối với các tù nhân thì băng giá đến
mức nào ? Đọc câu thơ đó gợi cho tôi một sự liên
tưởng, ông cai tù thời hiện đại sao lại giống ông
cai tù Đỗ Chu cách đây đã hai ngàn năm, kẻ đã thiến
sử gia vĩ đại của nhân loại – Tư Mã Thiên đến thế.
Những ông cai tù như thế làm sao có thể phục hồi nhân
cách cho tù nhân để họ có thể hoàn lương. Xin đừng
cho tôi lắm điều suy diễn vì những câu thơ của Trần
Nhuận Minh cứ bắt tôi phải suy nghĩ, phải liên tưởng.
Trong
thập loại chúng sinh đó có lẽ khổ nhất là người
nghệ sĩ mà đại diện cho họ là anh đạo diễn văn
công:
“Đứa
làm đạo diễn văn công
Nỗi
đau đời dấu vào trong tiếng cười”
Cái
khổ nhất của đời người là không dám bộc lộ chính
mình, không dám phơi trải gan ruột của mình ra với đời.
Tất cả cứ nằm trong cái vỏ bọc mà mình không bao giờ
muốn.
Vẫn
còn đó một ông giáo già, đã là ông giáo chỉ biết dạy
chữ, dạy nhân, dạy đức mà sao còn ham hố đi buôn nhà.
Có lẽ vì ông quá nghèo khổ. Ông không biết đâu những
gian manh lừa lọc trong đời này. Ngù ngờ như ông giáo
đi buôn nhà phải ra tòa âu cũng là chuyện thường tình.
Trần Nhuận Minh đặt nhiều lòng nhân ái cho hai hạng
người này: Ông giáo và nghệ sĩ.
“Sự
đời bác đến thế thì
Đã
làm ông giáo còn đi buôn nhà
Sớm
mai bác phải ra tòa
Khôn
ngoan biết lấy chi mà đãi nhau”
Không
hiểu sao tôi chỉ cầu mong ông giáo ấy có phải vào tù
thì đừng rơi vào ông trưởng trại tù – bạn chơi từ
thuở quàng khăn đỏ. Với một ông cai tù như thế vào
đó chắc rằng ông sẽ bị thịt nát xương tan. Người
bạn ấy sẵn sàng tỏ ra cái thế mạnh của mình kể cả
đối với bạn bè.
“CHÁU
ĐI ĐÀO THAN THỔ PHỈ”
Hai
tiếng “Thổ phỉ” đã là minh chứng đủ đầy cho sự
hỗn loạn của xã hội một thời ở vùng mỏ than Quảng
Ninh. Nạn đào than cướp giật, trộm cắp của các đầu
gấu, đầu nậu hoành hành ở vùng đất này 5 năm liền.
Đến nỗi Trung ương phải về chỉ đạo mới tạm yên
cái nạn đào than thổ phỉ. Cháu Mừng của Nhà thơ là
nạn nhân chắc chắn không phải duy nhất vì không phải
một hầm, một lò mà hàng trăm, hàng nghìn hầm lò than
khai thác than thổ phỉ. Đã là trộm cắp thì lấy đâu
ra an toàn. Cứ thế nhân lên để biết có bao nhiêu cháu
Mừng lâm vào cảnh đói rách nên phải:
“Cháu
đi đào than thổ phỉ
Lấy
tiền nuôi mẹ nuôi em
Sập
lò, cột đè gẫy nát
Xác
buộc túm trong vải bạt
Than
đổ ứ đầy lên trên
Xe
chạy trốn người, qua đêm”
Mặc
dù Nhà thơ đã viết:
“Đã
qua cái thời đói rách
Làm
sao còn khổ thế này”.
Nhưng
đã qua được đâu cái thời đói rách ấy và:
“Mẹ
cháu sẽ nhận được gì ?
Tiền
ư ? Gạo ư ? Vải ư ?
Em
cháu sẽ nhận được gì ?
Cặp
ư ? Sách ư ? Bút ư ?”
Tất
cả chỉ còn lại là cái chết đau thương tang tóc của
cháu Mừng. Cho đến chết thân hình dập nát giờ đây
vẫn không thoát khỏi tội tình:
“Cháu
nằm túm trong vải bạt
Mặt
mũi than đè dập nát
Xe
than đổi một mạng người
Chú
biết kêu cùng ai được”
Trần
Nhuận Minh chỉ biết ngửa mặt lên trời gọi tên cháu:
“Mừng ơi!”. Ôi cái tên mới đẹp làm sao ! Mẹ cha đặt
tên cho cháu, hy vọng cháu sẽ mang mừng vui đến cho cả
nhà nhưng ngờ đâu cháu lại đoản mệnh và mừng vui đâu
chẳng thấy, chỉ thấy tang tóc đau thương trùm lên cháu,
trùm lên gia đình, trùm lên cả vùng than. Không có ai vô
can trong nỗi đau này.
“ĐỒI
HOANG”
Trần
Nhuận Minh muốn gửi gắm vào đây thuyết nhân quả. Cái
giá phải trả cho việc hủy hoại quá khứ của chính dân
tộc mình là như thế đó. Sau cải cách ruộng đất, rồi
hợp tác hóa biết bao đình chùa ở những miền quê thờ
những vị thành hoàng, nơi cho những kẻ tu hành nương
nhờ cửa phật đều bị đập phá tan hoang để làm
chuồng lợn, chuồng bò. Lợn, bò chết chưa hẳn do thần
linh trừng phạt mà còn do cơ chế. Người bị dở dại
dở điên, kẻ thì lăn đùng ra chết bất đắc kỳ tử.
Qua bài thơ Trần Nhuận Minh muốn nhắc nhở không chỉ cả
một dân tộc mà mỗi con người phải biết tôn trọng
những giá trị đích thực của quá khứ, của lịch sử.
Nhìn cảnh đổ nát điêu tàn của Lam Kinh ai chẳng thấy
đau lòng.
“GỬI
BÁC VƯƠNG LIÊN”
Tôi
đã định dừng lại ở “Bên đường” vì những thân
phận khổ đau tôi nhắc đến đã đủ. Nhưng đây lại
là một phạm trù khác, phạm trù của lòng tham và tội
ác. Tôi luôn nghĩ trong một bài thơ có những câu thơ
phải viết để dẫn dắt và có những câu thơ muốn viết
mà người ta thường gọi là những câu thơ “đinh”,
câu thơ cốt lõi. Câu thơ lóe sáng để quyết định tứ
thơ mà Nhà thơ muốn gửi gắm. Bài thơ nói về chuyện
tiền nong nhiều đến nỗi phải nhét vào bao tải và bác
Vương Liên lại thuê đến hai hầu gái để đấm lưng
xoa bóp… Nhưng chỉ cần hai câu thơ tự bộc lộ thân
phận mình thì thần thái của bài thơ đã bốc lên ngùn
ngụt:
“Cái
thằng bé thuở nào
Bác
dạy làm cách mạng”
Thì
ra bác Vương Liên không phải ai khác mà đó là một ông
thầy của cách mạng. Ôi chua chát và phản phúc biết
chừng nào ! Ông thầy dạy cách mạng hiện nay sống như
thế đó, mà họ sống ngang nhiên mới lạ chứ. Những
điều như thế này phải dùng câu trả lời của đấng
Mê Tơi “như thế là như thế”. Còn chúng ta người
trần mắt thịt biết trả lời sao đây và biết đặt
niềm tin vào đâu để mà sống, mà làm việc.
“CANH
KHUYA”
Thân
phận của người con gái đẹp thời nay sao đắng cay đến
thế ? Xung quanh em chỉ toàn là cạm bẫy. Tôi cứ nghĩ
Trần Nhuận Minh lấy đâu ra nước mắt mà khóc thương
cho hết mọi kiếp người. Có thật thế chăng ?
“Đất
đã hẹp mà trời càng thêm hẹp
Trốn
vào đâu sông núi vẫn vô tình
Góc
phố nào không có lầu Ngưng Bích
Mặt
người nào không có dáng Sở Khanh”
Nhân
phẩm bị bủa vây.
“Chẳng
còn dám gửi quà về biếu mẹ
Nỗi
cô đơn thăm thẳm đến rợn người
Khi
chợt thấy bếp nhà ai đỏ lửa
Lúc
thoảng nghe đâu đó trẻ con cười”
Khát
vọng một tổ ấm gia đình, khát vọng làm mẹ đã bị
tước đoạt và Nhà thơ giàu nhân ái của chúng ta chỉ
biết:
“Anh
hãy ít ra là cầm lấy tay em
Để
em nhận tiền mà không hổ thẹn”
“NHÀ
THƠ ÁP TẢI”
Ở
nhiều nơi trên thế giới văn chương có thể biến người
ta thành tỷ phú đô la. Còn ở Việt Nam Nhà thơ còn phải
làm nghề áp tải hàng hóa để kiếm kế mưu sinh. Nhà
thơ Nhà văn là tầng lớp “bạch diện thư sinh” mà
phải :
“Không
ngờ một nhà thơ
Lại
sống bằng nắm đấm”
Và
cái cảnh:
“Thỉnh
thoảng lại gặp cướp
Còn
trộm thì mênh mông”...
“Đất
nước có một thời
Kẻ
gian nhiều như nấm”.
Đó
là thời nào ? Còn nếu vậy thì người ta sống làm sao
đây ? Nhưng không vì thế mà Nhà thơ phải từ bỏ khát
vọng, khí phách của mình:
“Phải
áp tải Sự Thật
Đến
những bến cuối cùng”
Và:
“Chai
rượu ngang dốc ngược
Đứng
cùng trời
uống
chung”
Những
bến cuối cùng ấy là cõi người, phải rọi soi, phải
thức tỉnh cõi người này bằng những câu thơ rắn hơn
sắt thép và sắc hơn cả gươm đao.
“VỚI
CHỊ HỒNG TÂM”
Thơ
Trần Nhuận Minh thường lấy tư liệu trong hiện thực
cuộc sống, vì thế tôi mới coi “Nhà thơ và hoa cỏ”
là văn chiêu hồn của thời hiện đại. Câu chuyện đau
lòng này xảy ra trên quê hương thứ hai của Trần Nhuận
Minh:
“Cuộc
đời toàn người tốt cả
Không
ai xấu với ai đâu”
Nói
thì nhẹ như lông hồng, nhưng thực tế thì bỗng dưng
chồng chị mất cửa, mất nhà, bị bắt giam vào tù.
Chuyện tày đình vậy mà Trần Nhuận Minh chỉ buông một
câu:
“Mừng
anh qua chút tai ương”
Cuộc
đời như thế mà chỉ là “chút” thì như thế nào mới
gọi là tai ương, là đại họa. Thế mới biết cuộc đời
này luật pháp không nằm trong tay những người điều
hành luật pháp mà thực ra những chánh tòa trong “Ngày
này tháng nọ năm kia…”, những chánh tòa dốt nát trong
“Em đi biên giới…” thì có cũng bằng không.
Luật pháp bây giờ nằm trong tay những kẻ nhỏ nhen ti
tiện, đố kỵ nhưng lại nắm trong tay chức trọng quyền
cao. Chỉ vì sơ sẩy trong đối nhân xử thế mà chồng
chị Hồng Tâm:
“Anh
chẳng hiểu sao bị bắt
Rồi
tự nhiên lại được tha
Thôi
thế là anh có phúc
Được
trả lương hưu trả nhà”
Anh
phải đi tù oan mấy năm trời. Ra tù rồi được trả
nhà, trả lương hưu nhưng rồi cũng không trụ nổi và
phải vĩnh biệt thế gian này đi tìm một chốn bằng an
nơi nào đó ở thế giới bên kia. Nhưng thế giới ấy
như Trần Nhuận Minh đã viết vẫn “tưng bừng cái
ác”. Đọc bài thơ tôi lại nhớ (khổ cái thân tôi
lại nhớ, lại liên tưởng nhưng nó đã là nghiệp chướng
của tôi rồi), vâng, vẫn nhớ vụ án giết người oan
sai ở tỉnh Bắc Giang. 12 năm tù cho một người vô tội.
Chuyện đã hai năm rõ mười như ban ngày mà tha ngay hay
tha chậm cứ nhùng nhằng mãi, trên dưới đều chối tội,
đều vô can như chẳng có gì. Kiếp người bây giờ chỉ
bằng con ong cái kiến.
“THOÁNG”
Là
tiếng chuông cảnh tỉnh sự băng hoại nhân cách của xã
hội đương đại. Nét thuần phong mỹ tục, vẻ đẹp
đoan trang của người phụ nữ Việt Nam thời nay không
còn nữa mà chỉ là:
“Đàn
bà khoác bị cói, đeo kính kơn, mặc quần soóc ra phố
Uống
rượu chửi tục như đàn ông”
Còn
trẻ con thì:
“Khách
đến nhà trẻ toàn nói trống không
Khó
lòng sai đun nước hay giữ chó
Chúng
đến trường tay dây mực xanh đỏ
Bôi
lên lưng áo thầy cô”
Rồi
ông kết thúc với câu thơ làm cho ta lo lắng sợ hãi:
“Bà
bán nước chè xanh không chỉ bán nước chè
Có
bán cả phụ tùng tên lửa”
“PHÚT
LÂM CHUNG CỦA CỤ HÃN”
Biểu
tượng liêm khiết, tận trung của một thời giờ đã trở
thành một nỗi ám ảnh, ân hận xót xa. Đến chết cụ
Hãn vẫn không thể nhắm mắt vì chưa được ăn năn sám
hối những gì do lòng tận tâm mù quáng đã gieo rắc tội
ác lên lớp trẻ. Trước khi nhắm mắt cụ muốn Nhà thơ
viết báo để xin lỗi những đứa trẻ đã bị ông đánh
đập, có đứa hộc cả máu mồm máu mũi, Nhà thơ đành
bất lực vì ông chỉ biết làm thơ. Thì ra tất cả mọi
nẻo đường không phải là ngõ cụt. Trước khi chết con
người ta vẫn mong muốn làm việc thiện. Sự ăn năn sám
hối này đã làm xúc động bao con tim. Cụ Hãn ơi ! Cụ
hãy nhắm mắt mà về trời, tất cả trẻ con trên đời
này đều sẵn sàng tha thứ cho cụ vì đó là biểu trưng
của một thời chứ không phải chỉ riêng mình cụ.
“GIAO
THỪA”
Đã
biết bao nhiêu Nhà thơ, Nhà văn đã viết như thế và còn
viết như thế về thân phận những đứa trẻ lang thang
cơ nhỡ không cửa không nhà, không ai cưu mang giúp đỡ
vào giữa đêm giao thừa mưa gió thét gào bụng đói cật
rét. Nhưng đó vẫn là câu thơ Trần Nhuận Minh phải
viết. Còn câu thơ Trần Nhuận Minh muốn viết lại rất
nhẹ nhàng:
“Nhưng
đừng nói là anh bảo nhé
Họ
sẽ mắng anh
không
biết giữ môi trường”
Đó
mới là những gì lớn lao mà Trần Nhuận Minh muốn gửi
gắm. Ở thời này nỗi niềm trắc ẩn, lòng nhân ái mà
còn bị rầy la chửi mắng thì có lẽ chẳng biết nói gì
hơn nữa. Lại phải mượn đấng thần linh “Như thế là
như thế” . Môi trường ở đây là gì ? Thật quá mỉa
mai cho cái môi trường của những kẻ đang quản lý xã
hội. Môi trường xã hội sạch đẹp chính là nơi không
còn người nghèo đói và vô gia cư.
“CON
CHÓ CỦA BẠN TÔI”
Đọc
bài thơ tôi lại nhớ đến truyện ngắn của Nhà văn Kim
Lân trong thời kỳ chống Pháp: “Con chó xấu xí”. Đúng
là khuyển mã chí tình. Tình cảm của con chó đối với
chủ còn tốt hơn cả con người. Đây là một thông điệp
đau xót mà Trần Nhuận Minh không muốn gửi nhưng rồi
vẫn phải gửi đến cõi người. Nhưng đó vẫn chỉ là
tình cảm của những con chó. Con chó nghiệp vụ ở một
mặt nào đó nó cũng vô cảm như con người:
“Không
động lòng bạn tình ve vãn
Chẳng
vẫy đuôi, chủ vuốt sống lưng
Nó
bình thản chồm lên kẻ địch
Vẻ
âm thầm cô độc dửng dưng”.
Nó
cũng tham lam, cũng vì miếng ăn nên phải đổi mạng:
“Vậy
mà vẫn bị ai đánh bả
Lê
tấm thân tê dại về nhà
Nó
cố kìm cơn đau xé ruột
Ngước
chào ông, hai giọt lệ sa”
“BÀI
THƠ KHÔNG ĐỊNH VIẾT”
“Không
ai vô can, khi một em bé
Đến
ngày hôm nay vẫn còn đói bánh mì”
Đó
là những câu thơ như muối, như trống, như lửa không
chỉ chảy xót xa, không chỉ đánh liên hồi, không chỉ
cháy không nguôi trong máu, trong tim, trong xương của Trần
Nhuận Minh mà trong tất cả những ai còn có lương tâm ở
cõi người.
Ngày
xưa cứ tưởng ở dưới chế độ phong kiến tư bản bên
nước Pháp xa xôi mới có chuyện này. Chuyện về một
Giăng Văn Giăng ăn cắp một chiếc bánh mì cho đứa cháu
ốm đau đói khát mà bị phạt tù khổ sai chung thân. Phạt
tù khổ sai chung thân Giăng Văn Giăng còn có cơ hội vượt
ngục để trở thành người lương thiện vĩ đại. Còn ở
đây sự tàn nhẫn thật vô độ:
“Mặt
nó sưng vêu tím như vỏ ốc nhồi
Răng
nó lung lay. Mép ứa dòng máu đỏ
Có
thể nó không còn mẹ, còn bố”
Và
Trần Nhuận Minh phải kêu lên:
“Giành
một miếng ăn mà bị xử đến mức này
Với
trẻ con sao các người ác thế”
Lũ
trẻ ra đường sợ nhất đòn hội đồng. Mà cũng lạ
người Việt Nam trước mọi kẻ thù thì dũng cảm mà
trước đồng loại thì lại hèn nhát và độc ác, chỉ
dám đánh kẻ yếu, chỉ dám đánh trẻ con. Nhiều người
đánh một mới độc ác chứ. Chẳng hiểu sau trận đòn
thù ấy đứa bé có thể sống được không hay phải dặt
dẹo bên lề đường xó chợ và biết đâu cũng chính
trận đòn thù tàn nhẫn ấy đã đốt lên trong lòng nó
ngọn lửa của hận thù đồng loại và biết đâu nó sẽ
trở thành một tên cướp khét tiếng. Xin đừng cho tôi
là suy diễn lắm điều. Tôi không muốn thế mà thơ Trần
Nhuận Minh bắt tôi phải nghĩ thế.
Ở
nước nhà đã vậy còn ở nước ngoài – trên một đất
nước vẫn được coi là anh em, là cùng phe phái Xã hội
chủ nghĩa, thân phận của những người Việt Nam ở đó
cũng chẳng khác gì con giun cái kiến, lòng nhân ái của
Trần Nhuận Minh vẫn khát khao bao trùm lên những thân
phận đó qua những bài thơ: “Tình cờ gặp người quen
trên tàu Xêvaxtôpôn – Matxcơva”, “Trên sân bay quốc
tế Seremechevô”, “Chú sang Liên Xô có gặp cháu”…
con người Việt ở xứ sở xã hội chủ nghĩa ấy cũng
bị ngược đãi tàn nhẫn không khác gì ở quê nhà.
“HỌP
CHI BỘ”:
Bài
thơ đề cập đến một vấn đề quá nhạy cảm, quá lớn
lao. Một hiện thực không thể chối cãi. Đó là sự phân
chia sâu sắc giầu và nghèo, chủ và tớ - cơ chế rõ
rệt của thời kinh tế thị trường. Ở đây Trần Nhuận
Minh đã đưa ra chính kiến của mình quá thẳng thắn và
đúng mực.
“Lý
do gì để giận
Nỗi
niềm nào để thương
Một
mai Nước có giặc
Biết
ai ra chiến trường...”
Trước
khi giã từ Văn chiêu hồn của thời hiện đại tôi muốn
nói rằng vẫn còn rất nhiều điều muốn cảm nhận,
muốn ghi lại về “Nhà thơ và hoa cỏ”. Trong cõi người
còn rất nhiều những mất mát thương đau, ngang trái dối
lừa nhưng trong sâu thẳm của nó vẫn còn tồn tại những
vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người, của lòng nhân
ái mà Trần Nhuận Minh đã gửi gẳm rất nhiều vào đây.
Nhưng đã đến lúc dừng lại.
Biết
bao nhiêu Nhà thơ, Nhà văn vĩ đại của nhân loại đã
phải khóc thương trước những số phận nghiệt ngã của
các nhân vật do mình sáng tạo ra. Chắc chắn khi viết
“Nhà thơ và hoa cỏ” nước mắt của Trần Nhuận Minh
đã thấm ướt những trang thơ khi phải khóc thương những
số phận ngang qua thế kỷ đã hội tụ đủ đầy vào
thơ ông.
Để
khép lại “Nhà thơ và hoa cỏ” Trần Nhuận Minh đã có
những bài thơ mà ngẫm nghĩ ta thấy xót xa đến vô cùng.
“Tạ ơn dân” là bài thơ như thế. Xót đau lắm chính
là lòng dân quá nhân hậu nhưng Trần Nhuận Minh vẫn cảnh
báo, vẫn nhắc nhở:
“Chí
nhỏ mưu việc lớn
Tài
thấp ở ngôi cao
Thời
trước ắt mang vạ
Thời
này thì chẳng sao”
Dù:
“Cuộc
đời nhân hậu thế
Thôi
mà buồn làm chi”
Thì
thuyết nhân quả, vòng sinh diệt vẫn không loại trừ.
“Trăng
tròn rồi sẽ khuyết
Quan
sang cũng có thì”
Hình
như linh cảm đã mách bảo ông một điều gì đó có phải
vậy chăng mà khi ông đang hiện hữu trong cõi người Trần
Nhuận Minh đã viết “Lời từ biệt” thật xót xa và
thống thiết:
“Tập
thơ khép, nửa mái đầu xổ bạc”
Bởi
vì ông đã viết:
“Những
câu thơ dằn vặt một đời người
Chẳng
cần biết có ai còn nhớ nữa
Cuộc
sống này với bao nhiêu trắc trở
Anh
có thể đi mà chả kịp chào...
Tìm
anh ư ? Ở bất cứ nơi nào
Khi
chợt thấy run run bông cỏ nở
Lúc
thoáng gặp một bóng người đau khổ
Tay
chìa ra… sâu như cõi thế gian”
Nhưng
rồi ông lại tự thắp lên trong tim ngọn lửa của khát
vọng:
“Gió
đã xanh thổi lên từ hoa cỏ
Nở
bời bời những khát vọng muôn sau”
Khát
vọng của ông đã trở thành hiện thực. Thơ ông đã
được tái bản nhiều lần, được nhiều người biết
đến, được nhiều người nhớ - trong đó có tôi. Sách
ông đã có mặt trong những thư viện lớn và có uy tín
trên thế giới, đó là hạnh phúc lớn lao mà Trần Nhuận
Minh có được.
Đúng
như linh cảm của ông, Trần Nhuận Minh đã ĐI. Ông
bị tai nạn giao thông và chết lâm sàng trong nhiều giờ.
Nhưng rất may cho đời, rất may cho cõi người vì “Nợ
đời chưa trả được ông vẫn còn đa mang”. Ông còn
quá nặng nợ với đời, nên ông chỉ đi một nửa, một
nửa còn nằm lại ở chốn nhân gian. Tâm hồn ông đã
lãng du trong miền “Dân gian mây trắng” ở cõi cao xanh
và ở đó ông đã gặp những chuyện bất bình, đã gặp
đấng Mê Tơi, Đáng Âm U và đã đối thoại. Cõi người
nhờ thế mà có được những tác phẩm vĩ đại như:
“Bản sô nát hoang dã”, “Bốn mươi lăm khúc đàn bầu
của kẻ vô danh”, “Miền dân gian mây trắng” mà tôi
cho là được ông sáng tạo ra từ trong cõi chết.
“SÁNG
TẠO TỪ TRONG CÕI CHẾT”
Tôi
được biết thông tin Trần Nhuận Minh bị chết lâm sàng
nhiều giờ do tai nạn giao thông qua lời kể của Nhà thơ
Trần Đăng Khoa trong buổi phát thanh VOV giao thông của Đài
Tiếng nói Việt Nam. Sau khi đọc “Bốn mùa” không hiểu
sao thông tin ấy cứ bám chặt lấy tôi như một định
mệnh. Linh cảm đã mách bảo tôi có những tác phẩm
trong “Bốn mùa” đã được Trần Nhuận Minh sáng tạo
từ trong cõi chết. Có thể đó là điều tôi võ đoán
nhưng “Trời ơi tách bạch mà chi”.
“Những
mảnh hồn xốp nhẹ như bọt biển” sau khi chết lâm
sàng của Trần Nhuận Minh đã được:
“Sóng
dềnh lên táp vào mỗi lòng người”
Để
trở thành:
“Những
câu thơ như MUỐI
Chảy
xót xa trong máu tôi
Những
câu thơ như TRỐNG
Đánh
liên hồi trong tim tôi
Những
câu thơ như LỬA
Cháy
không nguôi trong xương tôi”
Trong
cõi chết ấy Trần Nhuận Minh chắc chắn đã được gặp
Nhà thơ Khuất Nguyên. (là tôi cứ tưởng tượng ra như
thế) – Một người đồng cảm cách đây đã hơn 2000
năm giờ vẫn ôm nặng nỗi oan bơ vơ lưu lạc trong cõi
vô thường. Rất may cho đời trước khi ôm đá nhảy
xuống sông Mịch La để trẫm mình, Khuất Nguyên đã gặp
được người đánh cá và tác phẩm “Ngư phủ từ” ra
đời và tồn tại cho đến tận bây giờ, cho đến tận
mai sau. Khuất Nguyên đã khuyên Trần Nhuận Minh đi gặp
Đấng Mê Tơi, Đấng Âm U hay lang bạt trong miền “Dân
gian mây trắng” may ra mới tìm cho mình được những
nhận thức mới để giải thích cho được những ngang
trái, những đau thương mất mát trong cõi người hiện
tại.
“BẢN
XÔ NÁT HOANG DÔ
Đúng
như cái tên của nó, bản Xô–nát hoang dã được cất
lên từ trong thế giới hoang dã, ở đó Trần Nhuận Minh
không đề cập đến thế giới con người, thế giới ở
đây là thế giới của cỏ cây hoa lá, của sông nước
trời mây, của con cua, con cò, con dơi, cái kiến. Một thế
giới tạo hóa đã sinh ra và ông đã cố đi tìm một cách
nhận thức hoàn toàn mới về thế giới này. Mặc dù ông
đã phải dùng đến Kinh thánh:
“Hãy
gõ cửa rồi cửa sẽ mở
Hãy
tìm rồi người sẽ gặp”
Và
mặc dù đã có cả một Đấng Mê Tơi phù trợ, đối
thoại nhưng Trần Nhuận Minh vẫn không thể nào nhận
thức được thế giới khách quan đang tồn tại. Ông
không thể lý giải được vì sao biển nhận nước của
hàng triệu con sông mà biển chẳng đầy, biển nhận bao
nhiêu ngọt mà vẫn mặn, con cua không thể bò dọc mà chỉ
bò ngang, con cò chân dài, con kiến thì bé dù ngàn năm rồi
vẫn không thể lớn, con dơi treo ngược mình trên đá 6
tháng không ăn vẫn chẳng chết… cửa vẫn không mở,
tìm vẫn không gặp và từ đầu chí cuối Đấng Mê Tơi
cũng chỉ trả lời ông một câu nhất quán: “Như thế
là như thế”. Vì nó là do tạo hóa sinh ra như thế.
Nhưng thực ra nhận thức để làm gì vì mọi cái vẫn
tồn tại vượt ra ngoài nhận thức của chúng ta. Đó là
điều mà “Bản xô-nát hoang dã muốn gửi gắm”.
Vấn
đề ở đây Trần Nhuận Minh muốn gửi gắm thông điệp
cho chúng ta qua bản “Xô nát hoang dã”. Câu trả lời
của Đấng Mê Tơi hoàn toàn mang tính mặc định, phải
chăng đó cũng chính là nhận thức của thế giới đương
đại để chối bỏ những trách nhiệm về những đau khổ
trái ngang đang từng giờ, từng ngày diễn ra trong cõi
người này. Vì sao mợ Hữu, thím Hai Vui, những em bé
không cha không mẹ lang thang đói rét trong những đêm giao
thừa trên đường phố của Thành phố du lịch vào hàng
bậc nhất thế giới. Vì sao một em bé hôm nay vẫn còn
thiếu bánh mì ? Vì sao những kiếp người Việt Nam trên
thế gian này kể cả những đất nước bạn bè được
coi là cùng phe phái XHCN vẫn bị đọa đầy lầm than. Vì
sao mà anh công nhân chất phác thật thà mà phải đi bán
tín phiếu ở bên đường ? Và đã trở thành biểu tượng
một thời của cả nước non. Tất cả đều được trả
lời một câu “Như thế là như thế”. Tạo hóa sinh ra
những kẻ lầm than thì tạo hóa cũng sinh ra những kẻ
độc ác, ngu dốt và vô trách nhiệm. Đó là thông điệp
mà Trần Nhuận Minh muốn gửi gắm qua tác phẩm này. Mặc
dù trong “Bài thơ không định viết” Trần Nhuận Minh
đã có một câu kết đanh thép:
“Không
ai vô can khi một em bé
Đến
ngày hôm nay vẫn còn đói bánh mì”
Nhưng
tất cả đều vô can không chỉ với một em bé mà với
tất cả khổ đau ngang trái của cuộc đời.
Tôi
xin đi dọc hành trình của “Bản xô-nát hoang dã” với
sự nương nhờ tâm thế của Trần Nhuận Minh mà cảm
nhận và cố thu hái một vài chùm quả tri thức mà ông
muốn trao gửi qua từng chương một. Tôi cũng nguyện là,
dù chỉ rất mong manh nhỏ bé:
“Là
tình nhân ba trăm sắc thu buồn
Mọi
yêu ghét ta chẳng cần nhớ nữa
Vĩnh
biệt nhé, ráng chiều côi cút gió
Ta
một mình với một Đấng Mê Tơi...”
Và
một câu hỏi lớn: “TA LÀ AI THĂM THẲM CÓ TA KHÔNG ?”
Cảm
giác ban đầu của Trần Nhuận Minh trong cõi vô thường
đó là trăng. Ánh trăng ở đây đã hoàn toàn khác, nó
chỉ có màu sắc của trăng nhưng không trong suốt mà đậm
đặc. Nhiều trăng thế mà vợ chồng ông chẳng thể nhìn
thấy nhau. Ở đây là rất cụ thể “vợ” chứ không
phải là đại từ “em” mà sau này Trần Nhuận Minh
thường sử dụng. Cũng từ đây mọi nhận thức của
Trần Nhuận Minh đều hướng vào thế giới hoang dã. Ánh
trăng không chỉ che phủ hình bóng của vợ ta, chính ta mà
che phủ cả mọi nỗi khổ đau, hạnh phúc, che phủ cõi
người.
Trần
Nhuận Minh đã đối thoại với con ve sầu. Như con ve sầu
mà cũng phủ nhận tất cả, nó chỉ biết có mùa hè, mùa
hè mang đến cho nó tiếng kêu rỉ rả khắp đất trời,
nó không biết sự tồn tại của nó, tiếng kêu của nó
được thẩm thấu từ đất, được mùa thu ủ mát, được
cái rét của mùa đông tôi luyện, được cái tươi mát
của mùa xuân thấm nhuần để nó hiện hữu trong mùa hè.
Nó không cần biết, nó chỉ biết nó đang tồn tại.
Trần
Nhuận Minh đã gặp những câu thơ và ông lại muốn tìm
ra một cách nhận thức mới vì sao, mà câu thơ cũng mỏng
tựa cánh chuồn ấy lại “Thắng được cả sắt thép”,
và “Bền vững đến muôn đời” và Trần Nhuận Minh
lại hỏi: “Cánh chuồn thơ lấy ở đâu ra ? Từ hồn
nhiên khí trời chăng ? ” Trần Nhuận Minh như muốn nhắn
gửi để có những câu thơ mỏng như cánh chuồn, cứng
như sắt thép, sắc hơn gươm đao và tồn tại đến muôn
đời. Đó chính là linh khí, là hồn thiêng của cha ông,
của Nguyễn Trãi mặc dù Nguyễn Trãi:
“Cụ
đâu biết sớm mai
cùng
với mặt trời lên
Câu
thơ phải rơi đầu”
Đó
cũng là hồn thiêng của cụ Nguyễn Du vẫn còn lẫn trong
“Thập loại chúng sinh”. Muốn giải thích được thế
giới phải hòa mình vào thế giới, vào vũ trụ. Trần
Nhuận Minh nhắc nhở ta điều đó:
“Bản
thân tôi
không
biết mình là ai
Khi
tôi đứng một mình”
Cũng
có khi Trần Nhuận Minh ngần ngại xót đau, muốn tẩy
rửa, tẩy rửa cái gì đây Trần Nhuận Minh không nói, ta
phải tìm hiểu và tìm cho mình một lời giải đáp:
“Sau
mỗi bước đi
Tôi
lại tự xóa dấu chân mình
Những
cay đắng dập vùi
yêu
ghét và đau khổ
Dằn
vặt một đời người
Phảng
phất in trên gương mặt tôi
Trong
cả nụ cười tôi
Tôi
cũng tự xóa đi”
Và:
“Bao
khát vọng từng giày vò tôi
Những
đêm mất ngủ
Nay
chẳng còn có ý nghĩa...”
Sao
lại có sự chối bỏ phụ phàng như thế ? Vẫn là dấu
hỏi lớn lao cho cõi người. Có lẽ chính vì những đổi
dời dâu bể khôn lường:
“Nhìn
kỹ cá hóa chim
Lại
nhìn kỹ hơn chim hóa cá”
Để
đến nỗi:
“Sáu
mươi năm bò toài trên mặt đất
Vẫn
không hiểu lẽ đời”
Vì
trong cõi người này:
“Buồn
và vui làm sao phân biệt được...
Vây
và cánh làm sao phân biệt được...
Có
và không làm sao phân biệt được...”
Trần
Nhuận Minh đã hỏi Đấng Mê Tơi, vẫn chỉ nhận được
câu trả lời “Như thế là như thế”. Trần Nhuận Minh
lại nghĩ về thơ, vì thơ là báu vật, là lẽ sống của
đời ông. Ông vẫn hỏi thơ là gì, thơ của ai, phải
chăng đó là:
“Tiếng
run rẩy của giống nòi hoang dại
Âm
thầm reo trong ngực các thai nhi”
Còn
thơ của Đấng Mê Tơi thì:
“Muốn
nhìn ư ?
Phải
nhắm mắt lại”
Có
lẽ là với Đấng Mê Tơi thơ không hiện hữu. Trần
Nhuận Minh đã trở thành một kẻ lang thang trong cái nơi
âm thanh mà không có âm thanh, màu sắc mà không có màu
sắc, nghĩ suy không có nghĩ suy, chuyển động mà không có
chuyển động – đó chính là thơ.
Ta
bắt gặp ở đây một chương của bản “Xô-nát hoang
dã” vừa cô đơn, vừa hẫng hụt:
“Có
cơn gió
Chết
ở lưng chừng trời
Chẳng
bao giờ tới được cánh rừng xưa...
Có
ánh trăng
Tìm
về khung cửa cũ
Chỉ
gặp màu hoa dại dửng dưng...
Mây
trắng đi lấy chồng
Màu
thu thêm một đời
Cô
đơn …”
Đúng
là những câu thơ chỉ được viết ra từ trong cõi chết.
Sự
so sánh giữa cái cao cả với cái thấp hèn ở đây có
điều gì như sự hài hước nhưng là sự hài hước đau
đớn, một nghịch lý đắng cay. Những câu thơ ở đây
có chất hiện thực đến gan ruột.
“Đức
vua rất khổ (Thời này làm gì còn vua)
Vì
bị cầm tù trên ngai vàng
Và
ngày nào cũng ghê sợ rượu thịt...
Kẻ
hành khất rất khổ
Vì
được tự do đói rét”
Có
gì mỉa mai và đau xót khi ta có cái quyền tự do đói
rét. Trần Nhuận Minh đưa ra một giả định:
“Họ
có cớ để cùng thương nhau”
Nhưng
rồi ông lại phủ định:
“Nhưng
chẳng bao giờ họ thương nhau”
Rồi
đưa ra một câu hỏi tưởng như bâng quơ:
“Là
bởi vì sao ?”
Đó
là loài người, còn loài vật vẫn là cái nghịch cảnh
đau đớn đó và vẫn câu trả lời đó. Trong cõi đời
này không có cái gì là không thể. Có mà không, không mà
có. Cái vòng của sinh diệt cứ đổi thay, thay đổi khôn
lường và nó cứ bám riết lấy “cõi người quẩn quanh
nhợt nhạt”. Cuối cùng thì câm lặng vô cảm như những
bức tường mà cũng phải lên tiếng:
“Những
Bức Tường
Truyền
nhau câu hỏi ấy
Đời
nọ sang đời kia
Nhưng
chẳng bao giờ có câu trả lời
Đến
nỗi những cái tai của chúng
Đã
mọc đầy rêu xanh...”
Nhà
thơ cứ đi từ huyễn hoặc này đến huyễn hoặc khác,
có có, không không, sinh sinh, diệt diệt. Đến như “em”
cũng chỉ là một loài vật một cái gì đó không tưởng:
“Ô
kìa
Em
vừa chui qua
Một
tảng đá...”
Tất
cả thế giới hoang dã mà Trần Nhuận Minh không thể giải
thích vì sao.
Cứ
thế từ giả định đến mặc định, từng chương của
“Bản Xô-nát hoang dã” cứ dội vào lòng ta khi ai oán,
khi nặng nề, khi âm u như mê sảng. Cuối cùng thoát ra để
có thể tìm cho mình một điều gì đó gọi là nhận
thức, muốn tìm Đấng Mê Tơi thì: “Đấng cũng tít
tắp xa…” rõ ràng thế giới ở đây của Trần
Nhuận Minh đã được ông sáng tạo ra từ cõi chết. Khổ
thơ dưới đây lý giải cho tôi một phần điều đó và
điều tôi giả thiết cứ dần dần sáng rõ:
“Chính
tôi cũng không rõ hình hài
Biết
đâu vào một đêm mộng mị
Tôi
cũng được tái sinh (có nghĩa ông đã chết)
Có
thể là trong những con đom đóm
Vụt
bay ra từ tối sẫm ao bèo...”
Chỉ
trong cõi chết Trần Nhuận Minh mới có thể gặp được
Nguyễn Trãi và tôi thử hình dung ông đã trở thành
khách của Nguyễn Trãi:
“Khách
khứa hai ngàn núi xanh”
Và
cũng chỉ trong cõi chết ấy, Trần Nhuận Minh mới gặp
được Nguyễn Du để nghe:
“Tiếng
vời vợi những chiều thu tha phương
Ngàn
lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...”
Trần
Nhuận Minh đang đi trong miền hoang dã của vũ trụ để
lắng nghe những âm thanh hoang dã vọng vang của nó mong
tìm thấy, sàng lọc một điều gì đó giúp cho ông nhận
thức được một phần những gì đang diễn ra, đến nỗi
chỉ vì cái hiện tại đã nằm ra ngoài khát vọng tốt
đẹp mà ông đã học được trong một thời đã đổ vỡ.
Ông đau đớn từ bỏ những đứa con tinh thần của một
thời mang nặng đẻ đau để bây giờ ông tự hành xử
mình:
“Bây
giờ tôi
Tự
treo ngược mình lên câu thơ đây
Chân
tôi giần giật suy nghĩ
Tóc
tôi chạm cỏ xanh
nhàu
nát như cỏ xanh
Và
tôi thấy quê hương tôi
Là
ở trên trời”
Trần
Nhuận Minh lại nghĩ về vòng sinh diệt. Nghĩ đến cái
chết, từ “đi” được lặp đi lặp lại nhiều lần
trong “Bản xô-nát hoang dã”. Đừng vội “đi” như
thế, cõi người này đang cần những người như ông lắm
lắm.
“Tôi
không biết mình “đi”
Vào
một ngày nào
Nhưng
tôi biết ngày ấy
Ngôi
sao kia rực sáng
Rơi
khôn cùng trong đêm đen thăm thẳm
Và
sóng nhạc lặng thầm
Lần
cuối phát ra
Làm
tất cả trẻ sơ sinh
Đều
lặng lẽ
Nhoẻn
cười...
Và
góc vườn khuya
Nơi
lần đầu tôi đứng hôn em
Vang
vang nở
Một
nụ tầm xuân
Biêng
biếng tím
Nhỏ
và run
như
Cúc
áo em rơi...”
Ông
nghĩ ông sống đã không làm được gì cho đời và ông
hy vọng sau sự ra đi mọi điều với ông mới tồn tại,
mới có ích cho cõi người và hơn nữa mới là một điều
gì đó cho “Em”. Ở trong cõi chết mà Trần Nhuận Minh
vẫn viết những câu thơ “Thổi nao lòng từ tuổi
chớm hoa bay”, những câu thơ sẽ làm dột lòng bao kẻ
lang thang lưu đầy trong cả cõi người và trong cả cõi
âm u. Đã đến lúc tôi phải giã từ “Bản xô nát hoang
dã” mặc dù tôi rất muốn lãng du mãi trong âm thanh
hoang dã ấy suốt cả 36 chương. Nhưng đã đến lúc tôi
phải đến với những âm thanh của chiếc đàn bầu đang
ngân vang, đang réo rắt trong tâm hồn ông. Phải từ biệt
Đấng Mê Tơi vì Đấng Mê Tơi chỉ trả lời một câu
nhất quán “Như thế là như thế”. Và Trần Nhuận Minh
đang:
“Tôi
đứng chờ tôi
Miền
dân gian mây trắng bay”
“45
KHÚC ĐÀN BẦU CỦA KẺ VÔ DANH”
Đàn
bầu là thứ nhạc cụ độc đáo nhất của người Việt
mà âm thanh trầm bổng của nó có thể vọng vang, thẩm
thấu và lay thức cõi người. Trần Nhuận Minh đã dùng
chính tiếng đàn bầu của mình chứ không phải của một
kẻ vô danh nào khác. Kẻ vô danh đó cũng chính là cái
tôi của Nhà thơ. Một cái tôi đã đẩy đến tận cùng
để trở thành một vĩ nhân. Chính vì lẽ đó mà mỗi
khúc đàn bầu ở đây khi ngân lên là một chân lý, một
tập hợp chân lý, một châm ngôn, một tập hợp châm
ngôn sáng rõ và minh triết. Ở đây ta không còn gặp cái
hư ảo, cái mặc định trong “Bản xô nát hoang dã”.
Vai
trò của cái “tôi” hoặc “ta” trong 45 khúc đàn bầu
của kẻ vô danh được khẳng định có tầm vĩ đại.
Qua trí tưởng tượng vĩ đại của cái tôi đã tạo ra
một thế giới mới. Cái tôi, vẫn là cái tôi ấy đã
đẩy Trần Nhuận Minh tiếp cận với Đấng Âm U và ông
đã tạo ra 45 khúc đàn bầu, đó là thế giới thi ca kỳ
diệu, nó vượt ra ngoài trí tưởng tượng của những kẻ
trần tục như chúng ta. Những vần thơ như thế chỉ có
thể được sáng tạo ra từ trong cõi chết. Tất cả sự
phi lý ở đây lại bắt cõi người này công nhận nó và
cũng giúp cho mỗi người tiếp nhận được chân lý. Điều
kỳ diệu nhất của thế giới thi ca của Trần Nhuận
Minh chính ở chỗ đó. Chính cái tôi đã tạo ra sự bất
diệt cho thi ca. Vì thế mới có những câu thơ mềm mượt
như nhung nhưng lại cứng hơn sắt thép, sắc hơn gươm
đao. Ta cứ đi dọc theo và lặng nghe âm hưởng 45 khúc
đàn bầu ta sẽ sững sờ trước những gì mà Trần Nhuận
Minh đã khám phá và thu hái được từ Đấng Âm U.
KHÚC
1 – 5:
Đây
là cuộc vật lộn, tìm kiếm, chứng minh cái “ta”,
những giả thiết nghi ngờ, những chứng minh khẳng định.
Cái “ta” của một thời đã làm điêu đứng nền văn
chương, đều hủy diệt biết bao tài năng, đã làm cho
đất nước điêu đứng. Cái lá chắn của cái ta, chủ
nghĩa tập thể. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Không ai phải chịu trách nhiệm cho sự lầm than, đói khổ
của nhân dân ngoài tập thể. Tập thể là gì? Là số
đông, số đông càng lớn thì cái khổ của số đông
khác càng lớn. Những khúc đàn sau Trần Nhuận Minh dần
dần đề cập đến những gì là giả thiết trong năm
khúc này. Cuối cùng Trần Nhuận Minh đã phải mượn câu
thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu để chứng minh cái ta
không tồn tại hoặc cái ta chỉ là vô danh “Ta vô
danh trong ba ngàn thế giới vô danh”.
KHÚC
6 - 7:
Cái
tôi, cái cá nhân đã được khẳng định. Sự giải phóng
cái tôi là một cuộc cách mạng vĩ đại diễn ra rất
quyết liệt trong mặt trận văn học nghệ thuật. Một
thời trong văn chương chỉ được phép nói đến cái ta,
cái tập thể, phải biết tô hồng xã hội (cũng tốt
thôi) nhưng lại quá cực đoan. Vai trò của cái tôi đã
hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả bị đánh tơi tả và
không những thế bao kẻ mất việc phải về đập đá
mưu sinh và cũng bao kẻ phải ngồi tù. Cuộc tìm kiếm và
đấu tranh cho cái tôi diễn ra lâu dài và quyết liệt
trong mặt trận văn học nghệ thuật. Trần Nhuận Minh
viết:
"Cuộc
cách mạng đã bắt đầu hay còn sắp sửa
Cơn
bão lớn nổi lên từ nghiên mực..."
Và:
“Từ trong sâu thẳm Cái Tôi
Bay
lên tất cả
Cái
Tôi sáng tạo ra Thế giới
Và
chuyển rung trong mọi tế bào Ta...”.
Lịch
sử của nhân loại đã khẳng định hai câu thơ dưới
đây của Trần Nhuận Minh là chân lý tuyệt đối:
"Có
người đẩy cái Tôi đến tận cùng thì thành bậc Chân
tài
Có
kẻ đẩy cái Tôi đến tận cùng thì thành tên đại ác".
Thực
tế đã chứng minh rằng khi cái ta (HTX) bị thất bại và
cái tôi của người nông dân - thợ cày lên ngôi thì:
“Bát
cơm đầy hơn khi ruộng chia bé lại
Nụ
cười tươi trên gương mặt thợ cày”
Diện
tích đất nước ta vẫn vậy và diện tích đất đai canh
tác thì vẫn vậy. Một thời cái tập thể đã tàn phá
tan hoang “Đất không nuôi nổi người. Người không
nuôi nổi đất” (thơ Chế Lan Viên) và “Sắn
khoai quắt cả người” (thơ Nguyễn Phúc Nghị). Còn
bây giờ vẫn đất đai và con người ấy khi cơ chế đã
được giải phóng thì nước ta lại xuất khẩu gạo vào
nhất nhì thế giới. /
KHÚC
8:
Khát
vọng của Trần Nhuận Minh rồi sẽ đến ngày bao điều
tốt đẹp cũng sẽ đến và:
“Kẻ
phản trắc lập tức bị lưu đày
Ở
chỗ chính y đang hằng sống”
Lưu
đày ở nơi rừng thiêng nước độc, xa xôi hẻo lánh
chẳng còn ai biết đến y nữa thì có thể y lại thanh
thản. Còn lưu đày ở chính nơi y hằng sống thì sự lưu
đày ấy mới thực sự là lưu đày. Cả cuộc đời của
y sẽ sống trong hổ thẹn đắng cay trước sự chứng
kiến của những người mà y đã phản trắc. Và:
“Tên
ngậm máu phun người
Mặt
hắn tự nhiên đầy máu tanh hôi
Của
chính hắn”
Muốn
hại người, làm bẩn người thì chính hắn phải chịu
lấy cái nhuốc nhơ bẩn thỉu. Rồi Trần Nhuận Minh lại
hy vọng:
“Và
người trồng Cây Phúc
Thì
Quả Phúc đầy vườn
Nếu
vô tình xéo vào lưng con rắn độc
Thì
con rắn độc biến thành sợi dây”
Đó
là một thế giới tự do, công bằng và văn minh sẽ được
tạo dựng.
Những
chương sau này tác giả vẫn duy trì chữ “ta”. Nhưng ta
ở đây là hoàn toàn hoán đổi. Ta là những người cùng
chí hướng, cùng tâm huyết với nhà thơ chứ không phải
là cái ta có ý nghĩa tập thể của nhiều người. Âu đó
là sự khiêm tốn của nhà thơ.
KHÚC
9:
Một
khúc đàn bầu nhiều âm hưởng dạt dào, nhiều mê say
đắm đuối. Trần Nhuận Minh không muốn chúng ta phải
rượt đuổi những ý tưởng cao siêu và cũng vừa mộng
mị. Cũng có lúc nặng nề. Tác giả đã gảy lên một
khúc đàn thơ làm cho lòng ta dịu lại. Ta lại nghĩ về
“Em” và về những khát vọng mộng mơ:
“Suốt
đời Em khao khát
Những
gió trăng muôn thuở chẳng bến bờ
Và
vĩnh viễn
Nợ
nần khói sương...”
“Và
giải khăn mềm vắt vai
Là
một mảnh ánh trăng vàng
Bay
trong cánh rừng thưa...”
KHÚC
10:
Một
sự bừng thức đang day dứt đang trăn trở, ở đây Trần
Nhuận Minh đã có những câu thơ như MUỐI, chảy xót xa
trong máu ta, những câu thơ như TRỐNG, đánh liên hồi
trong tim ta, những câu thơ như LỬA, cháy không nguôi trong
xương ta:
“Bạn
thấy chăng
Hàng
triệu triệu Người
Lần
lượt lao vào lửa đạn
Cho
Tổ Quốc
Sáng
bừng tên tuổi
Rồi
để lại những nấm mồ vô danh
Trắng
đến tận chân trời...”
KHÚC
11:
Vẫn
là những câu hỏi xoáy vào tim óc cõi người:
“Thiện
và Ác
Cái
nào là bất diệt ?
Một
đời sông
Chỉ
có chảy thôi ư ?”
KHÚC
12:
Đừng
quá yêu tin (?). Sự yêu tin quá độ sẽ mang đến sự mất
mát lớn lao:
“Khi
yêu tin
Ta
thường không cảnh giác”
Lịch
sử đã chứng minh điều đó và truyền thuyết đã chứng
minh điều đó:
“Vẫn
còn đây
Cổ
Loa thành
Vạn
thuở
Trắng
trời lông ngỗng bay...”
KHÚC
13:
Khát
vọng chỉ có thể nảy sinh trong cõi chết. Ở đó không
có ai cám dỗ, không có ai kìm hãm, chỉ có một Đấng Âm
U dẫn dắt cho khát vọng cháy bùng.
KHÚC
16:
Châm
ngôn không thể là thơ. Còn thơ của Trần Nhuận Minh ở
đây đã trở thành châm ngôn. Đơn giản vậy mà ngàn đời
vẫn không thể nhận biết để thoát ra. Những cặp đùi
của người đẹp có thể giết chết những anh hùng hảo
hán hơn cả gươm đao.
KHÚC
17:
Ta
gặp lại triết gia vĩ đại của nhân loại : Khổng Tử.
Rõ ràng những câu thơ ở đây đã như muối, như trống,
như lửa. Những triết lý về sự thịnh suy, tất cả
những ngai vàng, những lầu son gác tía, những vị tướng
lừng danh đều được xây dựng từ máu xương của nhân
loại. Đưa ra những liệt kê thật đau đớn. Và rồi để
kết lại Trần Nhuận Minh đã cầu xin (Mặc dù thời gian
này không còn vua chúa nữa).
“Ta
thắp nén hương Đời
Lạy
tạ
Xin
Sông Núi sinh thành
Những
Nhà Vua có Đức
Để
mọi gia đình đời đời Sum họp
Và
sa trường
Mọc
đầy Bông lúa vàng”
Tưởng
như khát vọng đó là đơn giản nhưng ngàn đời nay vẫn
thế, vẫn cứ sản sinh ra những ông vua ngu tối đẩy dân
đen vào sông máu, núi xương.
KHÚC
18:
Những
giả định và mặc định mang tính hư ảo. Có thể tác
giả đã nhận thức được, còn chúng ta, chúng ta chưa
nhận thức được. Liệu lời khẳng định này có được
số đông đồng thuận.
“Tình
yêu ở ngoài hôn nhân
Tình
yêu mới vững bền”
Triết
lý này có thể xáo trộn những nhận thức cổ điển
chăng ? Tôi vừa nghi ngờ và cũng vừa tin vào triết lý
này của Trần Nhuận Minh. Một khía cạnh nào đó nó đã
thành chân lý. Tình yêu của mối tình đầu tuy dang dở
nhưng bao giờ nó cũng vững bền “Có những điều đốt
mãi chẳng thành tro” (Thơ Lê Quang Trang).
KHÚC
20:
Đấng
Âm U mà Trần Nhuận Minh tạo ra để đối thoại, để
gửi gắm để cứu vớt tâm hồn nhưng hóa ra cũng chỉ
là tầm thường giả dối và bất công.
KHÚC
21:
Như
trên tôi đã nói trước khi nhảy xuống sông Mịch La trẫm
mình, Khuất Nguyên đã gặp được người đánh cá, ông
ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Tất cả thiên hạ
đều say, chỉ mình ta tỉnh. Tất cả thiên hạ đều đục,
chỉ mình ta trong” và ông đã:
“Chọn
chỗ nước trong để trẫm mình
Tiếc
thay!
Con
cá lớn nuốt ông
Trong
bụng cá
thức
ăn đang thối rữa”.
Thì
ra người thông minh chính trực ở đâu và thời nào cũng
bị bủa vây và hãm hại.
KHÚC
23:
Mọi
biến thiên của vũ trụ lại nằm trong cái lặng im. Hai
câu kết thật tài hoa. Sao đến tận bây giờ vẫn tài
hoa Trần Nhuận Minh và hóm hỉnh khi viết về em. Sự thấu
hiểu của em lại bắt nguồn từ cái im lặng của ta.
“Ta
đến nhà Em
Lặng
ngắm kèo, ngắm cột
Em
biết là ta đã mê đắm Em rồi”
Vâng
! Lại là những câu thơ “Thổi nao lòng từ tuổi chớm
hoa bay” mãi mãi đi vào lòng người, và ở luôn trong
đó cho đến trọn đời.
KHÚC
24:
Một
chân lý tuyệt đối chăng ? Có lẽ ! Và không có lẽ. Hay
phải nhờ đến Đấng Mê Tơi “như thế là như thế”.
Ta không thể giải thích những điều tưởng như chân lý
mà Trần Nhuận Minh đã đưa ra:
“Cả
đời không bình yên
-
Phút gặp người tình cũ
Chao
ôi ! Tình yêu như ngọn gió
Bay
qua
Đầu
mũi kim”
Ngọn
gió bay qua đầu mũi kim ngọn gió sẽ bị cào cứa rách
nát và ngọn gió sẽ đau mãi không thôi. Tình yêu trong
đời của chúng ta cũng vậy. Nó chỉ tồn tại trong khát
vọng và trong nỗi đau như Nguyễn Hoa đã từng viết: “Em
là muối ướp nỗi đau tươi mãi”.
KHÚC
25:
Cảnh
dâu bể khôn lường làm cho lòng Nhà thơ xót đau. Cứng
như đá cũng phải đổi thay nữa là cõi người và làng
bản phố phường:
“Buổi
sáng đi
Xóm
cũ vẫn là Làng
Lúc
chiều về
Làng
đã xoay thành Phố
Nhà
đã tắt tiếng ru con muôn thuở
Tục
ngữ ca dao
Chết
trong sách giáo khoa...
Lũ
trẻ ngủ chập chờn
Trong
nhạc rock phát ra loa...”
KHÚC
26:
Cũng
trong một tiếng đàn bầu sao lại có cảnh ngược chiều
nhau:
“San
đất
Xẻ
nhà
Máu
còn không nỡ tiếc
Đếm
hết tóc trên đầu
Không
hết nghĩa tử sinh”
Sao
lại có sự vần xoay này, phải chăng lúc nào sự phản
trắc cũng rình rập quanh ta dù một thời ta đã sống với
nhau bằng tất cả nghĩa tử sinh, sao lúc nào ta cũng phải
cảnh giác:
“Mắt
này ngủ
Thì
mắt kia phải thức
Lúc
gian nguy
Mình
canh chính thân mình”
KHÚC
27:
Lại
trách móc Đấng Âm U mà ông đã sáng tạo ra là không
công bằng chính trực. Biết tin vào ai ? Biết dựa vào ai
:
“Người
hể hả đưa lên Thiên đường
Những
tên xảo trá
Và
vội vàng đẩy xuống Địa ngục
Những
vị anh hùng...
Ta
không hiểu bản thân Ta
Ta
phải tạo ra Người
Rồi
chính Người
Ta
càng không hiểu nổi...”
Những
khúc cuối ta lại cần phải suy ngẫm hơn rất nhiều vì
những gì mà Trần Nhuận Minh muốn gửi gắm vào đó.
Trần Nhuận Minh đã đề cập đến một vấn đề rất
hệ trọng của thực trạng xã hội. Ở đây Đấng Âm U
đã phán rằng :
“Thà
bất công còn hơn là hỗn loạn
Người
nói thế và mỉm cười
Nụ
cười vô tư lự
Của
Thiên thần
Và
của Trẻ sơ sinh”
Trước
nỗi bất công của cõi người mà Đấng Âm U vẫn cười
thì thật là đau xót.
Trần
Nhuận Minh muốn gửi một thông điệp từ nơi cao xanh
kia Đấng Âm U cũng đã thấu hiểu thể chế của đất
nước này. Hóa ra Đấng Âm U cũng chỉ là kẻ xu thời,
bợ đỡ, kẻ cơ hội như các chính trị gia của đất
nước này. Đành chấp nhận sự bất công đổ xuống đầu
nhân dân chứ không chấp nhận sự hỗn loạn.
KHÚC
28:
Phải
biết sống và nhận diện chân giả của cuộc đời. Tất
cả đều biến ảo khôn lường. Trần Nhuận Minh đã cảnh
báo với chúng ta:
“Luôn
lo xa
Họa
vẫn cứ đến gần
Kẻ
hiểm ác thường có khuôn mặt đẹp
Ngọn
lưỡi ngọt như dao thì sợ hơn dao
Trí
khôn bây giờ
Nằm
trong các hầu bao...”
Một
xã hội lấy đồng tiền thay cho trí tuệ !
KHÚC
29:
Âm
thanh của khúc đàn này khủng khiếp và ghê sợ, nặng nề
quá mà người đánh máy cho tôi lại là một cô gái có
trái tim đa cảm yếu mềm. Tôi không muốn em phải nghe
những âm thanh rùng rợn đó, sợ trái tim em phải run rẩy
nhói đau.
KHÚC
30:
Những
đổi thay nào cũng có sự trả giá, cái mới đi lên, cái
cũ úa tàn cả những điều tốt đẹp nhất. Nhưng nỗi
đau vẫn vậy chỉ tăng lên mà không bao giờ mất đi. Cái
mới không hẳn là cái tốt đẹp.
“Tổ
tiên đã chết ở đây
Những
gò đống cỏ xanh
Nay
đã ủi đi rồi
San
sát vũ trường
Sân
gôn
Quán
nhậu”
Và
chỉ:
“Còn
sót lại một cánh cò trắng mong manh
Thấp
thoáng bay
Trong
ráng đỏ hoàng hôn
Không
tìm ra chỗ đậu…”
Tất
cả là cảnh hoang vu cô quạnh đến đau lòng. Cánh cò
không tìm ra chỗ đậu, cánh cò bay mãi. Một cánh cò biểu
trưng cho đồng quê rồi cũng phải bị hủy diệt.
KHÚC
31:
Trong
quan niệm của Trần Nhuận Minh có hai thứ ánh sáng. Ánh
sáng tự nhiên và ánh sáng phi tự nhiên. Nếu cứ trộn
lẫn hai thứ ánh sáng đó vào nhau thì hậu quả:
“Nếu
ta rót đầy tràn
Ánh
sáng vào ánh sáng
Thì
bóng tối sẽ xuất hiện”
Nhưng
ánh sáng tự nhiên dù như thế nào đi chăng nữa vẫn cho
ta nhìn rõ sự thật:
“Ánh
sáng tự nhiên
Không
đầy không vơi
Đủ
để ta nhận ra
Gương
mặt Em yêu và Sự thật”
KHÚC
32:
Sự
bi quan và trống rỗng trong Nhà thơ cũng chính là sự bi
quan trống rỗng của cõi người. Đôi mắt to hơn người
mà không nhìn thấy bản thân ta và không biết học ai để
làm lại bản thân mình. Chỉ có một Trần Nhân Tông dám
bỏ phú quý vinh hoa, cung vàng điện ngọc để đi tìm
chân lý, tìm cách giải thoát cho cõi người:
“Vua
Trần Nhân Tông ba mươi lăm tuổi
Đã
coi ngai vàng như chiếc dép rách
Trút
áo hoàng bào
Vào
rừng hoang
Ngẫm
nghĩ sự đời
Ăn
sung luộc
Ôi
giời ơi !
Ta
chẳng dại học vua
Khi
ở bên ta
Lúc
nào cũng có hoa hậu và rượu thịt”
Nói
vậy thôi Trần Nhuận Minh đâu phải là vua mà chỉ là
một Nhà thơ :
“Em
vẫn vầy vậy thôi
Bụng
khi no khi đói
Tiền
lúc có lúc không
Vợ
chợt mừng chợt dỗi”
Ấy
thế mà không bỏ được đâu, ở đây Trần Nhuận Minh
muốn gửi một thông điệp chẳng ai muốn làm việc
thiện, chẳng ai dám hy sinh bản thân mình để giúp đời,
cứu đời. Nhà thơ đã bắt đầu cho một sự sám hối
chăng ? Nhà thơ sống lương thiện thế sao phải sám hối:
“Ta
nghe gió rét thổi
Qua
từng đốt xương rỗng sống lưng
Và
nghe bóng tối Đấng Âm U
Phủ
cuối đời ta từng nấc một”
KHÚC
33:
Tất
cả mọi sự tồn tại của vạn vật chỉ là tương đối,
đừng bao giờ lấy cái tuyệt đối để so sánh với cái
tương đối. Mọi sự ở đời phải có sự cân bằng và
có sự đối trọng. Cũng như có đàn ông phải có đàn
bà.
“Cõi
đời là bể khổ”
Thì
phải có:
“Thơ
ca là nỗi đau lên tiếng ...”
Muốn
biết núi Hy Mã Lạp cao thì vẫn phải hỏi đám mây. Sợi
tơ nhện mỏng manh chăng ra để bắt con ruồi. Và chỉ
con ruồi mới biết độ bền của sợi tơ nhện. Cái quy
luật vĩnh hằng là như thế:
“Thế
gian vẫn ngổn ngang
Như
khi trời đất mới tạo thành”
Và
mọi cái đều tồn tại ngoài ý muốn của con người và
vạn vật:
“Núi
nghĩ mà xanh cây
Sông
buồn mà bạc sóng...
Và
người cày ruộng
Vẫn
chẳng cần
Những
Vạc Đỉnh uy phong
Của
các triều vua”
KHÚC
34:
Như
tôi đã giả định những tác phẩm này là sự sáng tạo
từ cõi chết. Những cảnh mà Trần Nhuận Minh nhìn thấy
chỉ tồn tại trong cõi chết và ở đâu đó trong cõi Âm
u:
“Ta
đã từng trông thấy
Những
kinh thành huy hoàng, lộng lẫy,
Xinh
đẹp
Tươi
vui
Như
cô dâu trong ngày cưới
Bỗng
nhiên bị sụp đổ”
Và
cũng thật rùng rợn:
“Các
Thiên thần
Nướng
chả những vị vua
Uống
máu những anh hùng
Ăn
thịt ngựa và những người cưỡi ngựa
Quẳng
xương xuống biển khơi
Mà
đảo núi hình thành”
Trần
Nhuận Minh thảng thốt kêu lên:
“Chao
ôi
Cõi
Thiên thần
Cũng
tưng bừng sự ác
Huống
chi cõi Nhân gian...”
Và
rồi Trần Nhuận Minh:
“Ta
đã từng mơ ước
Miếng
ăn của kẻ nghèo
Không
còn ai cướp giật
Lúa
hạnh phúc chín vàng
Gọi
tay người cùng gặt
Con
đường đến với Tự Do
Là
chính Tự Do...”
Và
sẽ có một ngày:
“Ấy
là ngày Cái Thiện lên ngôi
Bạo
lực và cường quyền
Tất
cả
Thành
vô nghĩa...”
Nhưng
đó chỉ là khát vọng của Nhà thơ. Lòng nhân ái của
Nhà thơ ở đây như muốn bao trùm lên cõi người.
KHÚC
35:
Sự
thật giả, tráo trở vẫn đầy rẫy trong cõi người này.
Và Trần Nhuận Minh đã nhắc người và cũng tự nhắc
mình:
“Vị
Anh hùng ơi
Đi
đêm
Nhớ
mang theo Thanh Kiếm
Còn
Ta
Ta
mang theo Câu Thơ ”
Để
diệt trừ cái ác. Nhưng Nhà thơ ơi ! Thời buổi này
“Chẳng ai đọc sách nghe lời vua ban” nữa để
hiểu sức mạnh của thơ còn rắn hơn sắt thép và sắc
hơn cả gươm đao. Còn bọn trộm cướp, tham nhũng, hủ
hóa thời này chẳng còn sợ ai cả. Chúng liên kết với
nhau bằng thứ vật liệu siêu bền đó là tiền, chúng
bất chấp đạo lý và luật pháp.
KHÚC
36:
Kẻ
đớn hèn vô tích sự lại là kẻ đang thống trị, đang
chi phối mọi quy luật sinh tồn của cuộc sống. So với
cái cây, con cá, con người thời nay không bằng chúng mà:
“Nhưng
ta biết
Bắt
con cá rán ròn nhắm rượu
Chặt
cái cây xẻ gỗ đóng thành giường
Nằm
vắt tay ngang bụng em yêu”
Rồi
Nhà thơ tự hỏi:
“Ta
là ai ?
Giật
mình khi chợt thức …”
KHÚC
41:
Sức
mạnh của nghệ thuật, sức mạnh của thi ca là sức mạnh
vĩ đại nhất mặc dù Trần Nhuận Minh cũng không thể lý
giải:
“Nghệ
thuật là gì ư ?
Ta
đâu có hiểu
Nhưng
ta biết
Lưỡi
Kiếm ra trận của người anh hùng
Đã
tôi trong lời ru con của Mẹ
Và
Trái
đất quay trong từ trường
của
những Câu Thơ
Mà
còn đến bây giờ”
Một
nhận thức táo bạo của Trần Nhuận Minh.
KHÚC
42:
Tất
cả đang tăm tối và cần một sự đánh thức để xua
tan đêm tối.
“Cần
một tiếng chuông
Đánh
vào lúc nửa đêm”
Để
khỏi có những cảnh này:
“Khi
đi đã vấp ngã
Lúc
về lại lạc đường
Và
kiêu ngạo
Nghĩa
là đang tự sát”
KHÚC
43:
Nhìn
thế giới mà hãi hùng. Trần Nhuận Minh đã sám hối khi
nhận ra thực tại.
Người
con gái trẻ thì “Nỗi yêu anh còn biết giấu vào
đâu”, còn Nhà thơ thì:
“Ta
già rồi
Chẳng
biết giấu vào đâu
Nỗi
ngu dại
Học
từ thời tốt đẹp”
Chính
vì thế mà Nhà thơ cứ phải lang thang trong cõi chết:
“Nén
hương tắt khi mình chưa trọn kiếp
Cầm
chân hương
Đi
đến cuối cuộc đời”
KHÚC
44 + 45:
Xin
Nhà thơ đừng trăn trở nữa. Bốn mươi lăm khúc đàn
bầu mà ông đã soạn ra đã và đang vang vọng vào cõi
người. Họ sẵn sàng đón nhận những gì mà nhà thơ đã
gửi gắm khi còn sống và cả khi ông đã chết. Cứ bình
tâm, lòng nhân ái của ông đã bao trùm lên tất cả cõi
người. Xin nhắc lại một lần nữa, những câu thơ như
Muối của ông đã và sẽ chảy xót xa trong máu cõi người.
Những câu thơ như Trống của ông đã và sẽ đánh liên
hồi trong trái tim cõi người. Những câu thơ như Lửa của
ông đã và sẽ cháy không nguôi trong xương của cõi
người.
MIỀN
DÂN GIAN MÂY TRẮNG.
Cũng
có thể trong thời gian chết lâm sàng, Trần Nhuận Minh
tình cờ lạc vào miền dân gian khác lạ, những gì ở
đây đều không giống những gì ở cõi người dù ông đã
phải “bò toài” trong hơn 60 năm qua. Để có thể lý
giải những gì mà ông đã gặp, ông đã phải đặt tên
cho miền dân gian khác lạ đó là “Miền dân gian mây
trắng”. Ông vốn là người cẩn trọng trong cuộc sống
và trong đối nhân xử thế với cõi người. Vì cõi người
này vẫn còn lắm kẻ gian manh xảo trá, ghét ghen và đố
kỵ như ông đã gặp trong “Bản xô nát hoang dã” và
“45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh”. Ông đặt tên cho
thiên phóng sự của mình như thế là một điều rất cần
thiết. Sau tên mỗi bài thơ, rất nhiều câu thơ và rất
nhiều câu kết ông còn để dấu chấm lửng (…) Hình
như ông muốn gửi gắm tới chúng ta tất cả đều dang
dở, chưa kết thúc, chưa tận cùng chấm hết. Muốn mở
ra cho ta một trường liên tưởng không dứt. Cũng như các
tác phẩm trên ở đây tôi cũng lần lượt dọc theo hành
trình của “Miền dân gian mây trắng”.
“HÒN
GÀ CHỌI…”
Cứ
từ đó mà suy ra và biện minh cho tất cả những gì đang
diễn ra ở trong “Miền dân gian mây trắng” đều là
điều có thể.
“Hòn
Gà Chọi ! Đúng là đôi gà chọi.
Tàu
rẽ trái phía bên kia
Hòn
Gà Chọi đã thành hòn Cá Chép đang bơi
Tất
cả đều đổi thay
Dù
vững bền như đá
Thay
đổi góc nhìn, chỉ cần thế mà thôi …”
Vững
bền như đá mà còn đổi thay huống gì cõi người. Chỉ
cần một ẩn dụ ấy thôi, Trần Nhuận Minh đã xua tan
tất cả mọi ngờ vực và đố kỵ về tác phẩm "Miền
dân gian mây trắng". Nhưng hiểu như vậy theo tôi vẫn
là chưa hết những thông điệp mà bài thơ còn ẩn chứa.
Đừng đặt niềm tin tuyệt đối vào một điều gì. Tất
cả đều có thể đổi thay khi ta đổi góc nhìn, thay đổi
nhận thức. Một thời ta đã như Nhà thơ Việt Phương đã
viết: "Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy
Sỹ. Trăng Bắc Kinh tròn hơn trăng Mỹ". Một thời
tất cả mọi thông tin về tư bản đều bị bịt kín, bị
bóp méo. Một thời chủ nghĩa giáo điều đã tàn phá đất
nước này tan hoang kiệt quệ. Giờ cũng đất nước ấy,
con người ấy ta đã biết thay đổi góc nhìn thì nền
kinh tế (vâng chỉ kinh tế thôi) đã trở nên phồn
thịnh. Vâng:
"Thay
đổi góc nhìn, chỉ cần thế mà thôi"
“ANH
ĐÂY CÔNG TỬ”…
Đây
là bài thơ rất đậm chất hài hước dân gian, là Công
tử mà không một xu dính túi đến nỗi đi đón người
yêu còn phải:
“Chờ
anh, anh đón em về
Anh
còn mượn áo, với thuê cái quần”
Và
chàng công tử này cũng giàu lắm:
“Vàng,
đô ư ?
Có
! Lúc cần mới tiêu
Biết
khi nào vị công tử cần tiêu và tiêu vào việc gì ? Vì
thế cái “Vàng, đô” ở đây chỉ là cái hão
huyền, khoác lác với người yêu:
“Mai
anh bán nắng bến Triều
Bán
mưa chợ Cháy nộp cheo cho làng”
Và:
“Xe
công nông rất rộn ràng
Rước
dâu mời cả họ hàng cùng đi”
Đúng
là chuyện cười ra nước mắt !
“VẪN
CÒN ĐÂY…”
Đã
rất nhiều Nhà thơ viết về chuyện Tấm Cám, khen chê,
lý giải đủ điều về tội ác của Tấm. Có Nhà thơ
nhạc sĩ còn lấy hình ảnh Tấm là biểu tượng cho những
cô gái trung hậu đảm đang ở nông thôn Việt Nam. Cũng
rất nhiều người lý giải và bất bình với tội ác man
rợ của Tấm. Một truyện cổ tích mang tính ác và tính
bạo lực như vậy có nên đưa vào sách giáo khoa cho trẻ
con học hay không ? Có lẽ ngành giáo dục cũng cần xem
xét lại. Cũng có người biện minh cho tội ác của Tấm
là do vua chẳng ra vua, chỉ quẩn quanh với quả thị, với
gốc xoan đào, với con chim vàng anh mà quên đi chức phận
làm vua là phải biết ban điều thiện và trừng trị tội
ác nên cái ác mới sinh ra. Cũng có Nhà thơ trong đó có
Trần Nhuận Minh thì coi đây là quy luật tất yếu khi địa
vị xã hội của con người thay đổi thì nhân cách cũng
thay đổi. Ở địa vị càng cao thì sự gian manh, xảo trá
độc ác càng cao, càng man rợ:
“Man
rợ và thấp hèn
Cô
Tấm vợ vua là một người như thế
Ta
yêu suốt tuổi thơ là cớ làm sao ?...”
Một
câu hỏi đang xoáy vào tim óc của ngành giáo dục. Cô Tấm
ấy không hiểu vì sao cứ tồn tại “Như vẫn còn đây
trong mùa trảy hội” thì thật là man rợ, thật đại
loạn.
“TA
QUA BẾN LÚ…”
Chỉ
cần mấy câu thơ mà Trần Nhuận Minh đã khắc họa được
sự hủy hoại nhân cách, sự hỗn mang của “Miền dân
gian mây trắng”:
“Ta
rằng: Thiên hạ khác rồi
Chẳng
ai đọc sách nghe lời vua ban
Vua
rằng: Tớ bảo các quan
Ta
rằng: Quan bận săn toàn đô la”…
Một
xã hội chỉ lấy đồng tiền làm mục tiêu của cuộc
sống !
“EM
ĐI BIÊN GIỚI…”
Chuyện
mẹ chồng nàng dâu trong dân gian được Trần Nhuận Minh
khai thác để tố cáo cái ngu dốt ở cõi người:
"Em
đi biên giới buôn cam
Mẹ
chồng lại bảo đi làm ba toa"
Chuyện
tưởng chỉ có thế mà mẹ chồng nàng dâu lại đưa nhau
ra tòa và ông quan tòa lại quá ngu dốt:
Quan
tòa bắt giải trình toa hàng gì ?...
Chữ
"toa" lò mổ mà ông quan tòa lại hiểu là "toa
hàng", thì thật ngu dốt đi đến tận cùng. Không thể
tin cậy vào quan tòa, mẹ chồng nàng dâu lại lôi nhau:
"Về
làng hỏi cụ trưởng chi
Cụ
trưởng chi bảo ba thì hơn hai"
Và
chữ "ba" bây giờ lại được cụ trưởng chi
hiểu là số lượng. Trong cái dốt nát ngu tối nàng dâu
chỉ biết ngửa mặt kêu trời:
"Chao
ôi ! Nước rộng, non dài
Nỗi
oan, em biết cậy ai bây giờ"
Nước
thì rộng, non thì dài, ở đâu cũng chỉ một lũ quan tòa,
trưởng chi dốt nát ấy mà thôi.
“TỪ
XỬA TỪ XƯA”
Ngày
xưa thời Khổng Tử đã biết lấy dân làm gốc, tất cả
cho dân và vì dân và ngày nay ta cũng đang nói chính như
thế, không chỉ một lần mà ngàn lần. Nhưng người dân
ở đây cứ như cái thớt, ai muốn chặt chém băm vằm
thế nào cũng được. Bao chuyện trái ngang dân giơ đầu
ra chịu. Hỏi ai ai cũng lắc đầu im lặng:
“Mọi
đặc quyền đều xúc phạm Nhân Dân
Và
bất công như quả bóng lăn tròn
Từ
chân người này sang chân người khác
Im
lặng là vàng ư?
-
IM LẶNG LÀ TỘI ÁC…”
“ÔNG
GIÀ NẰM TRONG QUAN TÀI…”
Chuyện
đời thật quá éo le đến nỗi người chết nằm trong
quan tài mà không thể chịu nổi. Chết rồi còn phải
vùng dậy mà kêu mà van. Chuyện ma chay cưới xin, mừng
thọ, khao lão mẹ cha thời hiện đại của các ông quan
đầu huyện, đầu tỉnh, đầu ngành đã gieo rắc nỗi
khủng khiếp kinh hoàng cho các cán bộ công nhân nghèo
khổ. Sau mỗi đám tang, đám hỷ như thế các ông quan thu
về tiền tỷ. Nhưng chính đây cũng là dịp các quan dưới
chức dưới quyền tỏ lòng trung thành mẫn cán làm kiếp
chó dê trâu ngựa. Ông già nằm trong quan tài:
“Đời
ông theo gót Cụ Hồ
Muối
vừng cơm nắm… cầm cờ tiên phong
Một
trai duy nhất, con ông
Làm
quan đầu tỉnh cũng không kém đời…”
Cũng
chính nhờ chức quan đầu tỉnh mà kéo về đây một lũ
lốc nhốc áo xô, khăn mấn là con trai, con dâu, con gái,
con rể hờ. Ông già đã vùng dậy:
“Oan
tôi ! Xin chớ nghi ngờ
Tôi
không con bịch con bồ ở đâu
Bực
mình… muốn nói một câu
Mà
không cất nổi cái đầu được lên…
Con
ơi
Ông
khẽ khàng rên...
Nỗi
đau thành cỏ mọc trên nấm mồ...”
Nỗi
đau đời, nỗi đau của ông già một thời theo Cụ Hồ
giờ còn mãi, còn mãi vì cỏ xanh tượng trưng cho sự bất
diệt.
“NGÀY
NÀY THÁNG NỌ…”
Chuyện
thật mà như đùa, tất cả đều xảo trá và gian manh đến
như:
“Ngày
này, tháng nọ, năm kia
Nàng
trong khách sạn cặp kè một anh
Anh
này đang tiến bộ nhanh
Vừa
Giám đốc Sở vừa Thành ủy viên
Hai
người đứng ở hàng hiên
Hôn
nhau một cái, rồi lên trên lầu…”
Chuyện
nhân tình nhân ngãi, bồ bịch tùm lum như thế giữa ban
ngày ban mặt. Chuyện cứ như ở đâu đó trong “Miền
dân gian mây trắng”. Đến như thế này là cùng đường
rồi. Chuyện hôn nhau một cái bên hàng hiên giữa một
ông Thành ủy viên và một cô gái buôn Tần bán Sở.
Chuyện dẫn nhau lên lầu trong khách sạn đã là chuyện
thường tình của đời nay. Một Thành ủy viên mà như
thế đó ! Và một người nhân cách như “nàng” mà giờ
đây:
“Mừng
nàng làm cán bộ rồi
Có
hai con gửi hai nơi xa nhà"
Với
một câu thơ chắc như đinh đóng cột:
"Một
con thì giống Chánh tòa"
Ông
Chánh tòa mà cũng bồ bịch hủ hóa như thế ư ? Và một
câu:
"Một
con … như là … Cục trưởng Hải quan”
Sự
ỡm ờ ở đây nó chở được sự châm biến, mỉa mai
sâu sắc, ta hiểu thế nào đây câu thơ này: Như là ...
con, hay cũng chính là cục trưởng Hải quan. Một cục
trưởng đạo mạo danh giá như thế qua thơ Trần Nhuận
Minh lại trở thành một đứa con của một gái bán hoa.
Mà đã là con thì có thể rầy la, chửi mắng và sai
khiến. Đúng là một lũ nô lệ của tình dục. Cái giá,
cái nhân phẩm của ông Chánh tòa, của ông Cục trưởng
Hải quan đã bị nhấn chìm xuống tận bùn đen chỉ bằng
hai câu thơ tài hoa và dũng cảm đến độ thượng thừa.
Phải chăng chuyện như thế ở “Miền dân gian mây trắng”
chứ không phải ở cõi người.
“Miền
dân gian mây trắng” chỉ có 43 bài thơ mà đã vạn ngàn
trái ngang dâu bể. Vẫn còn rất nhiều điều mà Trần
Nhuận Minh muốn gửi gắm nhưng đã đến lúc tôi dừng
lại. Tôi đã hoàn toàn kiệt sức khi phải cùng ông lãng
du trong “Miền dân gian mây trắng” ấy. Ông xê dịch
phần hồn trong đó với tốc độ của ánh sáng 32 vạn
km/giây. Còn tôi xê dịch cái thân xác nặng nề già cỗi
này sao cho kịp cái mênh mông trời bể của ông. Chỉ
mong rằng những gì mà Trần Nhuận Minh đã viết, đã
phơi trải nó chỉ ở trên, ở trong “Miền dân gian mây
trắng” mà đừng giáng xuống cõi đời này nữa vì cõi
đời này cũng đã lắm nguồn cơn dâu bể trái ngang lọc
lừa lắm rồi.
“MỘT
QUYẾT ĐỊNH DŨNG CẢM NHƯNG BẤT CÔNG”
Khi
đọc lời thưa đầu sách của “Bốn mùa” tôi thực sự
trăn trở vì Trần Nhuận Minh đã quyết định loại bỏ
những sáng tác của ông từ 1960 đến 1985. Ông chỉ giữ
lại 29 bài và để nó vào phần phụ lục: “Gửi lại
dọc đường”. Tôi coi đó là một quyết định vừa
dũng cảm nhưng cũng vừa bất công.
Dũng
cảm vì dám từ bỏ một quá khứ, một phần tư thế kỉ
văn học mà không phải ai cũng có thể có được. Còn
bất công vì dù sao đó cũng là những đứa con tinh thần
mà ông đã mang nặng đẻ đau trong 25 năm có lẻ. Và bây
giờ, bình tĩnh ngồi đọc lại, nó vẫn có nhiều cái
được của một thời văn chương, như nhiều tác giả
khác.
Một
điều chắc chắn rằng những tập thơ của một thời ấy
sống được, tồn tại được là cả một sự cạnh
tranh khốc liệt lắm. Thời ấy để ra đời một tập
thơ đâu có dễ dàng gì, ba bốn lần kiểm duyệt, tiền
nong của Nhà nước bỏ ra thì trước hết thơ phải phục
vụ Nhà nước. Có nghĩa là tính tư tưởng của nó phải
đạt được chuẩn mực của xã hội đương đại và
người đọc đương đại. Số sách thời đó bao giờ
cũng xuất bản với số lượng bản in rất lớn. Thơ
thời đó có mặt khắp các hiệu sách nhân dân ở bất
kỳ nơi nào. Nghĩa là đối tượng đọc sách đa số là
nhân dân. Còn bây giờ ai có tiền cũng có thể in thơ và
đó có phải là thơ không thì còn phải bàn nhiều lắm.
Tự bỏ tiền in thơ thì số lượng phát hành nhỏ nhoi
đến thảm hại.
Nhưng
càng đọc kỹ thơ Trần Nhuận Minh tôi càng đồng thuận
với quyết định của ông. Vì ông đã từng chua chát:
“Tôi
già rồi
Chẳng
biết giấu vào đâu
Nỗi
ngu dại học từ thời tốt đẹp”
Đó
cũng là một lý do biện minh cho quyết định của mình.
Như đầu bài tôi đã viết Trần Nhuận Minh luôn muốn
làm mới mình, muốn vượt lên chính mình. Ông biết đoạn
tuyệt với những gì của quá khứ, thơ ngây, ấu trĩ về
nhận thức của mình là một điều dũng cảm. Vậy mà
sao tôi vẫn thấy nao lòng tiếc nuối. Biết đâu khi được
đọc toàn bộ tác phẩm của ông, người đọc lại càng
cảm thông và trân trọng với di sản văn học của ông
hơn. Có thể bây giờ quyền quyết định là của ông về
số phận tác phẩm của mình, còn mai sau… hậu thế sẽ
giữ lại những gì mà ông đã đoạn tuyệt. Tôi tin điều
đó sẽ trở thành hiện thực và hậu thế sẽ hiểu hơn
về con người và hành trình văn chương của Trần Nhuận
Minh.
Giờ
tôi xin nói đôi điều về hai bài thơ của ông đó là
“Thành phố bên này sông” và nhất là “Một trăm bước
cuối cùng” trong phần phụ lục “Gửi lại dọc đường”.
Với
hai bài thơ này dù Trần Nhuận Minh đã viết trong lời
tác giả về “Một trăm bước cuối cùng”, “Và cả
hai bên đều có rất nhiều nỗ lực tốt đẹp cho tương
lai”. Nỗ lực ấy là gì (?) thì hậu thế vẫn cần
biết đến cái mốc đau thương ấy. Dù không có tài liệu
nào công bố về thiệt hại và sự đau thương của cuộc
chiến tranh biên giới phía Bắc. Nhưng chỉ bằng hai bài
thơ này của Trần Nhuận Minh hậu thế sẽ hiểu và tự
mình định đoạt lấy vận mệnh của đất nước mình.
Vâng ! Niềm tin đừng bao giờ tuyệt đối hóa mà hãy có
giới hạn nhất là đối với ngoại bang về mọi mặt
quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa.
Tôi
chỉ nói về hình tượng người phụ nữ trong “Một
trăm bước cuối cùng”. Trần Nhuận Minh đã cho biết
bài thơ là cảm xúc được tạo dựng lên từ một nguyên
mẫu có thực trong đời, từ một bài báo đã được in
trên Báo Nhân dân (?).
Biết
bao Nhà thơ, Nhà văn đã sáng tạo ra hình tượng người
phụ nữ Việt Nam anh dũng và bất khuất. Người mẹ vẫn
đào hầm, chị Sứ trong “Hòn đất”, chị Út Tịch
trong “Người mẹ cầm súng” thì đời vẫn tin hình
tượng người phụ nữ của Trần Nhuận Minh sáng tạo ra
trong “Một trăm bước cuối cùng” là hình tượng vĩ
đại nhất, bi tráng nhất mà văn học Việt Nam đương
đại có thể sáng tạo ra. Chị đã lấy chính cái chết
của mình, của đứa con còn quẫy đạp trong bụng mình
để tiêu diệt kẻ thù. Chị Út Tịch trên tay còn có
khẩu súng, bên cạnh còn có đồng đội. Còn người phụ
nữ của Trần Nhuận Minh biết rằng mình chỉ còn một
trăm bước nữa là mình và cả đứa con sẽ bị hủy
diệt. Nhưng chị vẫn đếm từng bước, mỗi bước đi
là gần tới cái chết. Thế mà chị vẫn đi. Đứa con
trong bụng chị cũng lên tiếng đòi sự tồn tại, nhưng
rồi nó đã biết nằm im không quẫy đạp để thức tỉnh
bản năng làm mẹ sẽ làm nhụt ý chí của chị. Quân xâm
lược đã phải đền tội. Cuối cùng là hình tượng của
người phụ nữ và đứa con bay lên cõi cao xanh vô tận.
Chị đã về với cõi vĩnh hằng trong cái rên xiết, ai
oán của kẻ thù.
Dù
đó là hình tượng do Trần Nhuận Minh sáng tạo ra nhưng
tất cả chúng ta đều nhìn rõ xương cốt và hồn thiêng
dân tộc kết tụ vào người phụ nữ anh hùng. Tất cả
dân tộc này sẽ cúi đầu trước hình hài và hồn thiêng
của chị.
Bài
thơ mãi mãi tồn tại, tồn tại vững bền là cái mốc,
là lời cảnh báo cho mọi thế lực thù địch tàn bạo
nhất. Hình tượng ấy đã và còn khắc sâu mãi trong tâm
khảm người dân Việt Nam, nhắc nhở chúng ta sống phải
nhân hậu nhưng không bao giờ được mất cảnh giác.
Trong
lời “Tự thuật” Trần Nhuận Minh đã phơi bày gan
ruột, phơi bày cuộc đời ông ra giữa cõi người mong
nhận được một lời sẻ chia, một nỗi niềm đồng
vọng:
“Viết
được một câu thơ trung thực với Nhân Dân
Tôi
đã đi qua bốn mươi năm bão táp
Cả
xã hội diệt trừ cái ác
Cái
ác vẫn ngang nhiên cười nói giữa đời”
Cổ
nhân đã dạy: “Trăm dơ lấy nước làm sạch”
(nước ở đây là vật chất có công thức hóa học là
H2O). Mọi dơ dáy bẩn thỉu vật chất đều có
thể lấy nước tẩy rửa, làm sạch. Và: “Nước dơ
lấy gươm làm sạch” (Nước là đất nước, là Tổ
quốc). Đất nước này đang bị bọn biến chất, hủ
hóa, độc ác, tham nhũng làm dơ đục. Liệu rằng câu thơ
rắn hơn cả sắt thép, sắc hơn cả gươm đao, vững bền
và bất tử của Trần Nhuận Minh và bao nhiêu Nhà thơ tâm
huyết chính trực khác có thể diệt trừ được cái ác,
có thể làm cho đất nước này đỡ dơ đục hơn không ?
Đó có lẽ vẫn chỉ là khát vọng. Ta đã từng nghe Đấng
Âm U của Trần Nhuận Minh tuyên bố một chủ thuyết xanh
rờn “Bất công còn hơn hỗn loạn”. Chủ thuyết đó
đã và đang trở thành quốc sách thì tất cả vẫn chỉ
là ước mơ và khát vọng. Nhưng nếu ta sống mà không có
ước mơ và khát vọng ta sẽ sống như thế nào và sẽ
sống bằng gì ? Ta phải tin vào điều thiện rồi sẽ có
một ngày xã hội này sẽ trở nên tự do, dân chủ, công
bằng và văn minh. Ta tin rồi sẽ có một ngày khi chân ta
dẫm trên lưng con rắn độc, con rắn độc sẽ biến
thành sợi dây. Và ngày ấy, với:
“Tư duy và
tốc độ
Nhìn thấu
cõi Nhân gian
Định
đoạt lại Thiên Đường và Địa Ngục
Tổ
chức lại những cơn mưa mùa thu
Sắp
xếp lại sắc trời
Với
cánh chim bay là nốt nhạc
Tạo
dựng mới những tầm cao khát vọng
Sinh
nở mới những mùa trăng yêu đương
Chưa
từng có bao giờ...”
Để
nói về con đường sáng tạo thi ca đầy gian truân khổ
ải, Trần Nhuận Minh đã viết:
"Tập
thơ khép, nửa mái đầu xổ bạc"
Và:
"Viết
được một câu thơ trung thực với nhân dân
Tôi
đã đi qua 40 năm bão táp"
Tôi
muốn mượn ý thơ đó của Trần Nhuận Minh để gửi gắm
một phần nỗi niềm của mình: Viết được một câu
trung thực với thơ Trần Nhuận Minh tôi đã đi qua 2 năm
bão táp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét