THƠ
LUẬT ĐƯỜNG TRẦN TẾ XƯƠNG TUY TRÀO PHÚNG, NGẠO ĐỜI NHƯNG GIÀU LÒNG TRẮC ẨN VÀ
ĐẰM THẮM TÌNH NGƯỜI
Sưu tầm và biên soạn: Tạ Anh
Ngôi
Chủ tịch: Chi hội
thơ Đường Lục Đầu Giang tỉnh Hải Dương
Tiểu sử:
Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế
Xương, tự Mộng Tích, Tử Thị, hiệu Mặc Trai tên do bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần
Duy Uyên. Cụ sinh ngày 5/9/1870 (tức ngày 10/8 năm Canh Ngọ) cụ được sinh ra ở
làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (trước
đây là số nhà 247 phố Hàng Nâu, nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành
phố Nam Định. Cụ Tạ thế ngày 29/01/1907).
37 năm cuộc đời ngắn ngủi của cụ Tú nằm
gọn trong giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Cả cuộc đời cụ gắn liền với
thi cử. Cụ đã 8 lần đi thi đấy là các khóa thi năm 1886, 1888, 1891, 1894,
1897, 1900, 1903, 1906. Sau 3 lần thi hỏng, đến khoa Giáp Ngọ 1894 cụ mới đỗ Tú
Tài nhưng cũng chỉ là Tú Tài lấy thêm (Tú tài thiên thủ). Mặc dù kiên trì theo
đuổi khoa cử nhưng 4 lần thi sau đó cụ cũng không thể đoạt được bằng cử nhân. Ở
khoa thi Quý Mão 1903 cụ đã đổi tên từ Trần Tế Xương thành Trần Cao Xương nhưng
hỏng thi vẫn hoàn hỏng thi. Buồn bã cho số phận cụ đã phải thốt lên: "Tế
đổi làm Cao mà chó thế...". Thời bấy giờ bằng Tú tài thuộc loại
dang dở nên không được thi hội và không được bổ ngạch quan.
Cuộc sống về vật chất của cụ rất thiếu
thốn do cụ học hành thi cử liên miên (1886-1906) nên gia cảnh thiếu trước hụt
sau, mọi chi phí đều do cụ bà lo toan, gánh vác: "Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi
đủ năm con với một chồng..."
Sự nghèo đói của gia đình, sự nhí nhố của
xã hội đã va đập mạnh và in đậm trong thơ cụ Tú Xương:
II. TÁC PHẨM ĐỂ LẠI:
Trần Tú Xương mất sớm nên những tác phẩm
để lại không nhiều, không có di cảo, không có các công trình đáng tin cậy tập
hợp tác phẩm khi cụ còn sống hay lúc cụ mới nằm xuống. Sinh thời, cụ Tú sáng
tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, Thơ cụ làm thường chỉ để đọc lên
cho vợ con, bạn bè nghe rồi tùy ý truyền khẩu cho nhau mà thôi. Vì vậy đa phần
thơ cụ là thơ Truyền ngôn, không có văn bản.
Theo thống kê, người sau tập hợp được
khoảng 170 bài thơ (thơ, hát nói và câu
đối), trong đó thơ Đường luật là 133 bài.
III. THƠ ĐƯỜNG TRẦN
TÚ XƯƠNG TUY TRÀO LỘNG, NGẠO ĐỜI NHƯNG GIÀU LÒNG TRẮC ẨN VÀ ĐẰM THẮM TÌNH
NGƯỜI.
Phải nói rằng, trong số 133 bài thơ Luật
đường sáng tác bằng chữ Nôm để lại cho đời, Trần Tú Xương đã dồn rất nhiều tài
năng và tâm huyết vào các sáng tác. Xoay quanh đề tài nông thôn, tác giả đã thể
hiện rất thành công bức tranh thiên nhiên, con người và cuộc sống nơi đây. Qua
đó giãi bày một cách kín đáo, những nỗi niềm băn khoăn, những u uất của lòng
mình. Chiều sâu tư tưởng kết hợp hài hòa với nghệ thuật thơ Đường Luật, sự sáng
tạo điêu luyện đã đưa những thi phẩm ấy lên một vị thế xứng đáng trong thi đàn
dân tộc.
Thơ Tú Xương là tiếng nói chung của dân
tộc, không nặng nề về thổ ngữ nhưng cô đọng vào một hương vị thổ ngơi vùng Nam
Định. Tú Xương là một chứng tử về đạo học Thành Nam tàn cục vào phần cuối của
thế kỷ 19 suy tàn mà còn lây sang cả đầu thế kỷ 20. Thơ Đường Tú Xương là tập
ký sự chi tiết về đời sống Thành Nam, về sinh hoạt vật chất và tinh thần của 1
lớp nhà nho của Thành Nam lúc thực dân Pháp sang. Cũng lều chõng đi thi nhưng
thực ra chẳng ra làm sao cả.
Một việc văn chương thôi
cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì.
Rồi Tú Xương than cho đạo học, chán ngán
cho cái cảnh chữ Tây thay cho chữ Nôm; Mọi người xử thế theo lối.
Dấu không bia đá còn bia
miệng
Vứt bút lông đi giắt bút
chì.
Hay: Sĩ
khí rụt rè gà phải cáo
Văn
chương liều lĩnh đấm ăn xôi.
Chính vì thế mà Cụ đã chúc:
Chúc cho khắp hết cả trên
đời
Sao được cho ra cái giống
người.
Con người thơ Tú Xương muốn đứng đắn mà
đời sống lại thành ra lưu đãng hão huyền. Nhà nho khí khái muốn thanh bần với
đạo thánh hiền mà cuộc sống bị áp đặt cho nhiều bi lụy. Cái tâm hồn thèm khát
chan hòa ấy lại sa vào nỗi cô đơn, con người khí khái ấy lại phải vạ vào tình
bạn, lần hồi đắp đổi, nhớ thương.
Tương tư chẳng lọ là trai
gái
Một ngọn đèn khuya trống
điểm thùng.
Con người thơ nổi tiếng tài hoa, phong
nguyệt và thói ngông ấy lại đâm ra phá bĩnh.
Non nước thề bồi thôi xúy
xóa
Quỷ thần nào xứng ở hai vai.
Đối với phụ nữ tuy có lúc cụ xí xóa những
lời thề ước này khác nhưng Cụ cũng tỏ ra đồng cảm thương yêu:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như
không!
Cụ đâm ra ác khẩu trong cách đối chữ, đối
câu, đem cái tôn nghiêm ra đối với những cái không tiện viết đúng tên thật, Cụ
lỡm sự sống, Cụ cho lộn tùng phèo tất cả. Nghĩ về quan văn, quan võ cái thời
thế nhí nhố ấy Cụ đem võng điều võng thắm ra đối với khố xanh, khố đỏ, đem lọng
che đầu quan xứ đối với cái váy của mụ đầm, đem đít vịt của bà đầm đối với đầu
rồng của một ông cử dốt đang vái lạy mũ áo vua ban, nhưng cao trào hơn cả, Cụ
đem cờ (nước) ra đối với cái váy của đàn bà.
Cờ kéo rợp trời quan xứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Tú Xương khẩu xà nhưng tâm Phật, Cụ mắng
nhiếc, Cụ văng tục, Cụ nói lái, Cụ vằng nọ, vằng kia, gọi con này con khác. Cụ
văng ra đủ mọi thứ, Cụ bỡn đủ mọi hạng người.
Cũng đã sư mô cùng lớp trẻ
Lại còn tấp tểnh với đàn em.
Vợ đẹp của người không giữ
được
Chồng ngu mượn đứa để chơi
nhăng
.........
Mới biết hồng nhan là thế
thế
Trăm năm trăm tuổi lại trăm
thằng.
Thơ Tú Xương không chỉ trào phúng ngạo đời
mà còn đầy lòng trắc ẩn con người. Những trận lụt tai hại cùng với chính sách
sưu cao thuế nặng đã đẩy người dân đến độ cùng quẫn buồn đau. Câu thơ như một
tiếng thở dài, một sự đồng cảm, thể hiện tâm lý chân thực, nỗi lo lắng chân
tình của ông với người dân:
Thử xem một tháng mấy lần
mưa
Ruộng hóa ra sông cỏ vật vờ
Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện
cũ
Con thuyền Quý Tỵ, nhớ năm
xưa
Trâu bò buộc cẳng coi buồn
nhỉ
Tôm tép văng mình đã sướng
chưa!
Nghe nói miền Nam trời đại
hạn
Sao không san sẻ nước cho
vừa?
Là một bậc danh nho nhưng lận đận trong
thi cử, hoàn cảnh đã tác động mạnh vào sáng tác của Cụ. Tuy rất nhiều sáng tác
của Cụ đều theo chiều hướng bớn cợt, trêu đời, xỏ xiên người này, người khác
nhưng ta vẫn nhận ra một tấm lòng thi nhân rất đời và rất người.
Quanh năm buôn bán ở mon
sông
Nuôi đủ năm con với một
chồng
Lặn lội thân cò khi quãng
vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành
phận
Năm nắng mười mưa dám quản
công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như
không!
Nếu chúng ta liệt Tú Xương vào loại nhà
Thơ đạt đỉnh của Thơ Nôm thì bài thơ "Thương vợ" có thể liệt vào loại
đỉnh Thơ Luật đường của Tú Xương cả về thi pháp lẫn thi luật. Sự độc đáo của
bài thơ "Thương vợ" ấy là Cụ đã buông lời nguyền rủa chính mình,
sao quá bất tài và nhu nhược chẳng khác gì những đứa trẻ yếu đuối và là gánh
nặng trên đôi vai mảnh mai của vợ "Nuôi đủ năm con với một chồng".
Tú Xương chửi mình hay là chửi cuộc đời đã xô đẩy, mang đến cho bà Tú quá nhiều
nỗi đắng cay chua xót? Mắt nhìn thấy, nhưng không thể làm gì để gánh hộ, sẻ
chia những oằn nặng trên vai vợ là nỗi hối hận và nhục nhã cùng kiệt của một
đấng tu mi, đã dàn trải ẩn chứa trong các câu thơ. Lời tự trách móc rất đỗi
chân thành xuất phát từ trái tim ấy để rồi đi đến chế diễu cái vô tích sự của
chính mình làm giọng thơ như trào phúng, cười đó, khóc đó, nhưng đằm sâu nhân
bản.
Thời kỳ văn học trung đại đã kết thúc với
thành tựu cuối cùng rất rực rỡ của 2 cây bút trào phúng Nguyễn Khuyến và Tú
Xương. Nếu Nguyễn Khuyến mang đến một hồn thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà thâm thúy
thì Tú Xương lại mang đến cho người đọc những câu thơ trào phúng cay độc, bốp
chát nhưng lại đằm thắm tình người. Dù vậy, Trần Tế Xương vẫn được người đời xếp Cụ vào hàng ngũ những nhà thơ
Nôm viết thơ Đường luật xuất sắc hàng đầu Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu
thế kỷ 20. Bởi lẽ, sự trào lộng trong thơ Tú Xương hết sức phong phú đa dạng.
Cụcười bọn quan dốt nát tham lam vơ vét hại dân, cười những ông hàn, ông cử dốt
nát và hãnh tiến nhố nhăng, Cụ cười cả vua, cả quan tây và cười cả chính mình.
Chính vì thế sự trào lộng mang sắc thái khác nhau đã thật sự gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người
đọc.
Là một nhà thơ được sinh ra trong khoảng
thời gian đầy biến động khi triều Nguyễn đã mục ruỗng, đất nước đang bị kiềm
tỏa trong vòng lệ thuộc, nhân dân đói khổ lầm than, những điều Tú Xương đã trải
qua, đã tai nghe mắt thấy, những va đập của cuộc đời đã hình thành nên con
người thơ và các thi phẩm Luật Đường của Trần Tế Xương. Đấy là 133 bài thơ thể
Luật Đường đầy khinh bạc, mỉa mai chua chát và nỗi đau xót cuộc đời qua từng
vần thơ Đường đăng đối và ấn tượng. Có thể nói 133 bài thơ Luật Đường trào lộng
đã bồi đắp lên tên tuổi của Trần Tế Xương trên thi đàn của dân tộc. Cùng với
Nguyễn Khuyến, nhà thơ Thành Nam Trần Tế Xương đã đạt được những thành tựu và
có giá trị bền vững trong lĩnh vực thơ trào phúng của nền văn học Việt Nam. Mai đây dù
thời gian có trôi đi, nhưng lớp bụi của nó cũng không thể làm lu mờ dấu ấn mà
Trần Tế Xương đã tạc vào tâm trí các thế
hệ người đọc - Dấu ấn về một nhà thơ trào phúng dẫu trào lộng nhưng vẫn đằm
thắm tình người.
Hải Dương, ngày 20 tháng 8 năm 2016
Tạ
Anh Ngôi